Friday, June 19, 2015

Tiết lộ chấn động về thuốc Tây Y và phương pháp điều trị ung thư

 

On Thursday, 18 June 2015, 8:36, Hoa Nguyen <> wrote:

Kính chuyển, tài liệu quan trọng.
Tài liệu này rất có giá trị, mời các Cụ đọc chậm và suy nghĩ để uống thuốc và trị bệnh.
Hòa

Tiết lộ chấn động về thuốc Tây Y và phương pháp điều trị ung thư

Để mở đầu bài viết xin trích dẫn câu nói khá nổi tiếng ” Ngàn lần nói sai thành chân lý”, đa số chúng ta khi sinh ra tới khi chết đi nếu bạn không tinh ý bạn sẽ bị dẫn dắt bởi giáo dục, truyền thông đang hàng ngày “tẩy não” chúng ta một cách hết sức tinh vi và có hệ thống .
 
Tây Y (Western medecine) đã tiến bộ và phát triển mạnh mẽ trong khoảng 100 năm trở lại đây, Bên cạnh những thành tựu xuất sắc, đặc biệt của các trị liệu bằng phẫu thuật, vi phẫu thuật, đặt implant, thay ghép tạng, sử dụng tế bào mầm v.v…người ta nhận ra là vẫn có một bộ phận của Tây Y trở nên ì ạch không phát triển gì nhiều. Đó là sự tồn đọng của nhiều bệnh (thường gặp) mà nguyên nhân vẫn còn không được biết rõ! Và vì thế, những trị liệu hiện nay chỉ có tính cách trị triệu chứng (symptom relief) hoặc trị liệu tạm thời (palliative care). Ví dụ bệnh suyễn, bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh vảy nến, bệnh vảy cá (ichthyosis) v.v và v.v…nhất là Tây Y chưa giải quyết được một bệnh ác tính đang tăng nhanh trong thời đại này, đó là bệnh ung thư.
 
Khi nhìn về y học cổ truyền, thì người ta lại nhận ra rằng y học cổ truyền đã thất lạc mất rồi. Dù đã được phục hồi phần nào trong thời gian gần đây nhưng nền y học cổ truyền đã bị thất lạc rất nhiều kiến thức mà nó đã xây dựng qua hàng ngàn thế kỷ! Điều đáng sợ, là không phải nền y học cổ truyền tự nó suy tàn, mà nó đã bị “bức tử” trong đầu thế kỷ 20.
Có thông tin cho rằng chính giới tài phiệt của nước Mỹ, vì cạnh tranh, đã tiêu diệt nền y học cổ truyền với mục đích kiếm lợi!
Dĩ nhiên một người sáng suốt sẽ không quá khích (như những người chủ trương thuyết âm mưu) cho rằng nền Tây Y là không giá trị. Ngược lại, phải thấy rõ cái vĩ đại mà ngành Y bây giờ đã đạt được trong thời gian ngắn khoảng 100 năm trở lại đây. Phải thấy biết ơn những gì mà giới tư bản đã đóng góp cho các trường Y trên thế giới, giúp ngành Y có được những thành tựu như ngày nay.
Nhưng, không vì thế, mà ta không biết một chút về mặt trái của tư bản, của cái gọi là Quỹ Rockefeller.
 

Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ- FDA
 
“Vấn đề của các hệ thống y tế là nó được điều hành bởi các nhà tài phiệt để phục vụ cho các mục đích tài chính. Nó chẳng sinh lợi gì trừ khi có người bị bệnh, do đó toàn bộ hệ thống y tế được thiết kế để làm con người càng ngày càng bệnh tật nhiều hơn.”
 
(Tiến sĩ bác sĩ Guylain Lanctor, tác giả của ‘The Medical Mafia: How to Get Out of It Alive and Take Back Our Health & Wealth’ )
 
Việc tẩy não quần chúng được ngành Dược được bắt đầu rất sớm.
 
“Ai nắm giữ quá khứ sẽ kiểm soát tương lai. Ai nắm giữ hiện tại sẽ tóm gọn quá  khứ” phải có sự hiểu biết cặn kẽ về Cục Quản lý Thuốc và Thực Phẩm Hoa Kỳ (US FDA), nhất là về những cộng sự và lịch sử tăm tối của Cục - George Orwell’s (in Nineteen eighty four)
 
Cục quản lý thuốc và thực phẩm (F.D.A) lúc mới bắt đầu thành lập chỉ là một ban quản lý hóa chất (Division of Chemistry), thời gian sau được gọi là Cục quản lý hóa chất (Bureau of Chemistry), mãi về sau mới đổi tên thành F.D.A.. Cái tên đã được thay đổi nhằm che dấu các dự án hóa chất công nghiệp. Cơ quan này cấp cho các công ty tư cách pháp lý để đưa hóa chất vào thực phẩm và giúp các hãng dược phẩm bằng cách chứng nhận “được FDA chấp thuận”. Người dân sẽ không có bằng chứng pháp lý nào để chống lại ngành công nghiệp hóa chất được.
 
Công việc thực sự của nó đã và đang làm là “thông qua” hoặc “xử phạt” những sản phẩm thuộc ngành công nghiệp hóa chất. và với quyền lực này, nó che dấu một cách hợp pháp cho những hóa chất trong ngành công nghiệp, bằng cách tuyên bố …cái gì mới là “an toàn”.
 
Nó đều đặn chia sẻ những dữ liệu được bảo mật với các nghiệp đoàn hóa học cộng sự, để làm giảm nhẹ trách nhiệm. Ví dụ, những thông tin ô nhiễm mà họ đã ém nhẹm trước công chúng. Đây là những vấn đề thuộc “quan hệ công chúng”
 
Mô hình F.D.A hiện đại hơn được tiến hành vào năm 1913—trong cùng một thời điểm thành lập ra quỹ Rockefeller. Tay nắm tay, FDA – Quỹ Rockefeller và Hiệp hội y tế Hoa Kỳ (AMA) cùng nhau hoạt động sát cánh.
 
Quỹ Rockefeller được thành lập vào năm 1913, với mục đích trọng yếu là nhắm vào lãnh vực y học và đào tạo y khoa. Tài trợ ban đầu của Rockefeller cho trường y đạt trên 550.000.000 dollar. Chỉ trong năm 1928, Quỹ Rockefeller đã tài trợ tiền cho 18 trường Y trên khắp 14 quốc gia. Từ đó, những cộng sự của Rockefeller tại FDA đã bắt đầu thúc đẩy cuộc cạnh tranh khốc liệt với tất cả các loại thuốc nào được coi là “đối lập” với ngành công nghiệp hóa chất.
 
“Tôi sẽ không đời nào công nhận mọi loại thuốc mới nào, trừ phi loại thuốc ấy đến từ một hãng dược khổng lồ với những nguồn tài chính vô hạn. “ - Tiến sĩ Richard J.Crout, giám đốc của cục quản lý thuốc của FDA (Spotlight, 18 tháng 1, 1982)
 
Các loại thảo dược bị đàn áp là tất cả thứ mà FDA không thể kiểm soát, và khống chế bằng các tấm bằng sáng chế (patent). Thuốc từ tự nhiên sẽ chẳng bao giờ có thể được cấp bằng sáng chế cả! Đó là lý do tại sao tất cả các liệu pháp thiên nhiên và không gây độc hại hiển nhiên trở thành “thuốc bịp bơm” theo cách gọi của FDA, của ngành công nghiệp hóa chất, và của ngành y! Ngược lại chỉ có những hóa chất trái với tự nhiên (như phi hữu cơ và chất độc ) là có thể được cấp bằng sáng chế, và những loại thuốc không chứa độc tố được xem là một mối đe dọa trong việc kinh doanh thuốc.

“FDA bảo vệ các tập đoàn dược phẩm lớn, sau đó được nhận lại sự khen thưởng. FDA sử dụng quyền lực của chính phủ, họ tấn công những ai gây nguy hại cho các hãng dược lớn. Người dân nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Nhưng không phải thế!. Những gì mà FDA đang làm và những gì mà người dân tưởng như vậy, thực sự hoàn toàn trái ngược như ngày với đêm.”  - Tiến sĩ Herbert Ley, cựu thành viên hội đồng của FDA
 
“Vào năm 1919, việc Rockefeller trao tặng một số trường y ở Canada 5.000.000 dollar đã góp phần tạo nên nền giáo dục y khoa Canada đến tận thế kỷ 20. 
 
Y học thời đó làm gì có cái thị trường sinh ra lợi lộc như bây giờ, thế nên các trường y đã phải nương nhờ vào các khoản viện trợ của Rockefeller (dành cho những trường đào tạo đạt yêu cầu). Ngành Y nhận tài trợ và chấp nhận điều kiện của Rockefeller là phải tuân thủ các quy định:
 
- Một là, từ bỏ các thể loại y học cổ truyền thống và các dược liệu tự nhiên, thay vào đó là một thế hệ mới các sản phẩm thuốc từ các dẫn xuất hóa học.
 
- Hai là phải xóa bỏ toàn bộ nền y học của quá khứ. Điều gì đã xảy ra để khơi mào cho nạn đốt sách ở khắp nơi? Trong một vài trường hợp, chính FDA đã thiêu hủy sách. Quả là một thời kỳ gian nan cho các bác sĩ theo truyền thống trị liệu tự nhiên (traditional naturalpathic)

Nhà tài phiệt Rockefeller
Tất cả những ai bất đồng chính kiến, cố nắm giữ quá khứ, có quan điểm tổng quan (holistic), dùng các liệu pháp thiên nhiên để chữa bệnh, từ nay sẽ được xem như bị quỷ ám, một dạng “lang băm” đối với hệ thống đào tạo y khoa chính quy, dù cho đó có là những “lang băm” từng đoạt giải nobel y học, và kết quả thu được sâu rộng đến chừng nào.
 
…Có các vitamin hay sữa tươi có thể thực sự tiêu diệt các tế bào ung thư. Điều đó có nghĩa là có khi chỉ cần thực dưỡng mà chẳng cần phải có các bác sĩ với những phương pháp chữa bệnh nào nữa. Thực dưỡng như vậy là bất hợp pháp, dù bằng cách này hay cách khác, vì chẳng có một phương pháp thực dưỡng nào được “chấp thuận” cả..
 
Đã có một mối quan hệ bất chính được hình thành giữa hiệp hội Y học Hoa Kỳ, FDA, và Quỹ Rockefeller. Để đảm bảo sự tuân thủ hợp đồng của các trường Y, quỹ Rockefeller thường xuyên nhấn mạnh các trường Y phải đặt nhân viên của Quỹ Rockefeller vào ban giám đốc điều hành.
 
Hệ thống pháp lý mới củng cố sự độc quyền của ngành Y, cùng với sự độc quyền ở lĩnh vực công nghiệp hóa dầu của Rockefeller trong quá khứ. Thay vì chỉ sở hữu tất cả các nguồn dầu khí, đế chế Rockefeller hiện nay đã kiểm soát hầu hết tất cả các loại thuốc men tiêu dùng. Nó sở hữu vị chúa sơn lâm, được gọi là “công nghiệp dược phẩm”, mà trước đây là ngành công nghiệp hóa chất. Lại một lần nữa, thuốc men sẽ được kiểm soát và điều chế để chống lại người dân Mỹ. Hệ thống từ đó phân nhánh vươn ra trên toàn thế giới.
Suốt cả cuộc đời, ngài John D. Rockefeller đã từ chối uống loại thuốc thế hệ mới! Trái lại, cả đời ngài lại sử dụng những phương pháp có tính toàn diện của y học truyền thống cho mục đích sức khỏe của chính mình. Nhiều người bạn của ngài tại FDA và AMA cũng cùng một kiểu như thế.
 
Sau khi Rockefeller cưỡng chiếm các trường Y, thì các bệnh chết người như bại liệt- tim- và ung thư thực sự bùng phát.
 
Từng có một chuyên gia u não chiễm trệ trong phòng khách của tôi bảo với tôi rằng, anh ta sẽ chẳng bao giờ xạ trị, nếu như chẳng may bị u não đi nữa. Và tôi hỏi anh ta rằng, “thế chẳng phải anh vẫn chuyển người ta đến khu xạ trị sao?” anh ta điềm nhiên trả lời “ phải thế thôi, nếu không tôi sẽ bị tống cổ khỏi bệnh viện” (Tiến sĩ, bác sĩ Ralph Moss.)
 
Nếu mắc bệnh ung thư thì: 90% bác sĩ ung thư học (oncologist) sẽ không bao giờ chấp nhận chiếu xạ cho ung thư phổi. 84% sẽ không chấp nhận hóa trị cho ung thư đại tràng.
 

Nghiên cứu của đại học Harvard được công bố tại viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ : “Có sự khác biệt về sự thuận tình chấp nhận các liệu pháp kháng ung thư của các bác sĩ chuyên khoa ung thư khi chính họ bị bệnh”
 
 Xạ trị, hóa trị những điều bạn chưa biết :
 
Liệu pháp hóa trị và xạ trị được cho là phương pháp điều trị ung thư khoa học nhất. Tuy nhiên, những con số khoa học đó chẳng ăn khớp gì với nhau.
 
100% quá trình điều trị đều độc hại.
 
Tính trung bình, Liệu pháp hóa trị và xạ trị chỉ có hiệu quả 4-5% trong cả một quá trình phục hồi dai dẳng.
 
Cụm từ ‘điều trị thành công’ được các bác sĩ chuyên khoa ung thư và y văn định nghĩa, tức là không có các khối u (chẳng có tí dính dáng gì đến ung thư) trong vòng 5 năm, và họ tiếp tục đếm con số bệnh nhân ‘sống sót’, dù cho 6 năm sau là những người này có chết đi chăng nữa, những con số này tiếp tục được họ xào nấu thành tỷ lệ chữa bệnh của mình. Đây là một trong những cách mà khoa học điều chế cho ra đúng thuốc khớp với những con số của mình.
  

“Những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng, những bệnh nhận ung thư không điều trị sống lâu hơn gấp 4 lần những bệnh nhân điều trị. Đối với các loại ung thư điển hình, thì người từ chối điều trị có thể sống giao động trong vòng từ nửa năm đến 12 năm. Còn những ai chấp nhận phẫu thuật, hay các phương pháp trị liệu khác [ hóa trị, xạ trị, cobalt] chỉ có một mức trung bình là 3 năm.” (Tiến sĩ Hardin Jones, bộ môn sinh lý học, đại học California, Berkeley).
 Tất cả những phương pháp điều trị hạt nhân và hóa trị được biết là căn nguyên gây ra và di căn ung thư.
 
Những phương pháp vô lý này được gọi là “biết được mặt trái của hiệu quả”. Động thái sàng lọc để phân loại ung thư cũng cùng một kiểu với phương pháp điều trị, đưa ra càng nhiều trường hợp bệnh nhân nhiễm phóng xạ và các độc chất công nghiệp càng tốt. Đây là lý do mà con số mắc bệnh ung thư vú bùng phát cùng với sư gia tăng những thử nghiệm chụp nhũ ảnh.
 
Trường hợp tử vong do điều trị (tử vong do bác sĩ điều trị) đứng thứ 3 trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mỹ trích từ thống kê riêng của các tổ chức y tế. Cái chết bởi thầy thuốc bình thường tới nỗi người ta đã gói gọn nó trong một từ ‘iatrogenic’-do thầy thuốc.
 
Các cô gái phải trải qua hóa và xạ trị phải đối diện với nguy cơ 35% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú vào độ tuổi 40, 75% là điều này sẽ xảy ra cao hơn cái mức trung bình 35% kia. Bức xạ quang tuyến vú cũng sản sinh ra các loại ung thư, đặc biệt là ở vùng ngực.
 
“Một nghiên cứu với hơn 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ ràng rằng chỉ định hóa trị mạnh cho chứng Hodgkin (u hạch bạch huyết) được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án thực là trò lừa bịp. Những bệnh nhân trải qua hóa trị, có hơn 14% phát triển các bện bạch cầu và hơn 6% phát triển ung thư các cơ xương khớp gấp hiều lần những bệnh nhân không phải trải qua hóa trị liệu - Tiến sĩ-Bác Sĩ y khoa John Diamond
 
Tiến sĩ Ewan Cameran, đã 2 lần thắng Linus Pauling ở giải Nobel tại Scotland (mà nghiên cứu của Linus sau này đã được nhân rộng trên các nghiên cứu tại Canada và Nhật Bản), bằng nghiên cứu so sánh giữa việc điều trị vitamin C với hóa trị liệu.
 Đoán thử xem, nhóm bệnh nhân này sẽ sống dai hơn thời gian trung bình của các bệnh nhân ung thư là bao lâu? Và số bệnh nhân trong nhóm này là bao nhiêu?
 Vitamin C giúp kéo dài tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân ung thư lên gấp 6 lần, và đương nhiên cũng làm chất lượng đời sống của họ tốt hơn. Có một sự khác biệt so với thực tế là Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch, thay vì làm suy yếu nó hơn như hóa trị đã làm.
 “Là một nhà hóa học được đào tạo để giải thích dữ liệu, thông tin này khiến tôi khó mà chấp nhận rằng các bác sĩ đã bác bỏ bằng chứng rõ ràng rằng càng hóa trị bao nhiêu, càng hại nhiều hơn là lợi.” – TIến sĩ Alan Nixon, cựu chủ tịch của hiệp hội hóa học Hoa Kỳ.
 
Bệnh nhân ung thư đều có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu bất kỳ lúc nào, điều đó là hiển nhiên vì hóa trị liệu đã phá hủy hoàn toàn hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, và do đó vi khuẩn đã từ đó dễ dàng xâm nhập và giết chết bệnh nhân. Thông thường thì những trường hợp như thế này lại được tính là “tử vong do nhiễm trùng máu” thay vì là tử vong do ung thư. Đó là một phương cách khác để hội đồng y tế thao túng các số liệu thống kê về sự an toàn và hiệu quả của hóa trị và xạ trị liệu pháp.
 
Các công ty hóa chất đã tạo ra vấn đề, để họ có thể kinh doanh trên chúng ta bằng giải pháp của riêng họ. Các giải pháp phòng tránh mà họ nói chỉ đơn giản là không để lộ ra thứ chất độc mà họ đang kinh doanh.
 Tiếng nói của họ vô cùng mạnh mẽ trên các kênh truyền thông đại chúng, cho nên họ mặc nhiên có thể đổ lỗi những bệnh tật đã gây ra cho chúng ta là do mặt trời. Chứng thiếu hụt vitamin D rất là phổ biến hiện nay, chứng minh rằng mọi người đã không nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
 Thời gian trung bình đã dự kiến để chữa bệnh thường được kéo dài thêm 4% trên tổng số quá trình (đó là chưa tính trong vòng 5 năm trở lại đây họ đã dung những tinh đồn để gian lận các thông số chữa trị)
 Vì vậy, với lượng độc tố trong các “phương pháp điều trị quy chuẩn”, thì có khoảng 96% khả năng là phương pháp điều trị sẽ giết bạn, nhiều hơn là căn bệnh ung thư sẽ giết chết bạn.
 Ngay từ khi còn là sinh viên các bác sĩ đã nhận quà của Big Pharma, càng về sau sự nghiệp thì những món quà này càng lớn hơn.
 Các bác sĩ chuyên khoa khác chỉ đơn giản là viết toa thuốc, nhưng riêng bác sĩ chuyên khoa ung bứu (trị ung thư) có lợi nhuận cao hầu nhờ mua sỉ các loại thuốc chống ung thư trên thị trường, và bán chúng cho bệnh nhân với giá trên trời. Họ cho bệnh nhân biết rằng những người này sẽ chết nếu không có thuốc.
 

(NBC Nightly News story- Các bác sĩ khoa ung thư thu lợi nhuận từ các thuốc hóa trị liệu. )
 
“Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh ung thư ở đất nước này chết vì hóa trị. Liệu pháp hóa trị không trị hết ung thư vú, ung thư đại tràng hay ung thư phổi. Sự thực này đã được ghi nhận trong hơn một thập kỷ qua, nhưng các bác sĩ vẫn áp dụng hóa trị đối với những khối u loại này. Nữ giới bị ung thư vú có nguy cơ chết nhanh hơn là không có hóa trị.”  (Bác sĩ y khoa Alan Levin).
 “Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (The American Cancer Society) đã cố gắng hủy đi nền tảng nghiên cứu của tôi”. (Tiến sĩ Albert Szent-Gyorgyi, người nghiên cứu những đột phá của vitamin C, người chiến thắng giải Nobel Y học năm 1937 )
 
Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ – The American Cancer Society 
 

Bạn đoán thử xem tổ chức này được thành lập khi nào và và bởi ai ?
 


Tổ chức này được thành lập bởi John. D. Rockefeller Jr., trong năm 1931 màu nhiệm, cùng với thời điểm khi ngài “hiến tặng” tài sản cho đại học Havard. Bạn có tin rằng một ngày đẹp trời nào đó, họ sẽ công bố phương pháp chữa lành bệnh ung thư, và vứt bỏ chiếc xe tải chất hàng đống tiền của mình không? Và bạn sẽ hiểu tại sao vitamin C lại đe dọa đến sứ mệnh của họ?
 
Chúng ta được giáo dục để tin vào “kỳ tích” của hóa dược hiện đại, là vượt trội hơn so với các loại thảo dược truyền thống. Nhưng, cái mà họ không đề cập đến là khoảng từ 50-70% thành phần hóa học của thuốc hiện đại được trích từ các thành phần thảo dược. Chính các hợp chất hữu cơ ấy là lý do tại sao một số loại hóa dược đôi khi lại có hiệu quả!
 
Theo ghi nhận của ủy ban điều tra dân số Hoa Kỳ, Ung thư là sát thủ đứng thứ 2 ở nước Mỹ, nhưng hầu hết những ca tử vong là do phương pháp điều trị, chứ không phải do bệnh ung thư. Các loại dược phẩm là kẻ giết người đứng thứ 4. Nước Mỹ sở hữu một hệ thống y tế nguy hiểm và đắt tiền nhất thế giới. Hệ thống này tạo ra 60% tất cả các vụ phá sản tại nước Mỹ.
 
“Không chỉ có một, mà còn rất là nhiều những phương pháp chữa trị cho bệnh ung thư. Nhưng tất cả những phương pháp còn lại đều bị ACS, NCI và các trung tâm ung thư lớn đàn áp. Bởi hiện tại họ đang có quá nhiều lợi nhuận trong chuyện này”(Tiến sĩ, bác sĩ y khoa, tác giả của “chế độ ăn kiêng Atkins”.)
 
(Sưu tầm)


__._,_.___

Posted by: loc huong 

Wednesday, June 17, 2015

Những câu hỏi quan trọng nhất về dịch MERS


- Về dịch MERS (Hội Chứng Nghẹt Thỡ từ Trung Đông // Middle East respiratory syndrome)
- Cuộc Giải Phẫu Phép Lạ / Món Đông Trùng Hạ Thảo
 


 Những câu hỏi quan trọng nhất về dịch MERS
·        
alt
·         alt
·         alt
·         alt
TTO - Khi dịch MERS đang lan rộng tại Hàn Quốc, công chúng quốc tế nhìn chung vẫn rất mù mờ về loại virút nguy hiểm này. Các nhà khoa học vừa cung cấp những thông tin cơ bản về dịch.
Học sinh Hàn Quốc ở Seoul đeo khẩu trang để đề phòng MERS Ảnh: Reuters
Học sinh Hàn Quốc ở Seoul đeo khẩu trang để đề phòng MERS Ảnh: Reuters
Bệnh nhân MERS đầu tiên tại Hàn Quốc là một doanh nhân từng đến Saudi Arabia, nơi dịch MERS hoành hành dữ dội nhất. Đến nay ở Saudi Arabia đã có hơn 1.000 trường hợp nhiễm bệnh kể từ khi giới khoa học phát hiện ra vi rút này hồi năm 2012.
Hiện khoa học vẫn chưa hiểu rõ về MERS, nhưng mới đây tạp chí y học The Lancet đăng tải một nghiên cứu của hai chuyên gia Stanley Pearlman thuộc ĐH Iowa (Mỹ) và Alimuddin Zumla từ ĐH College London (Anh). Họ thu thập các tài liệu đã kiểm chứng để giải thích hoạt động của MERS.
MERS xuất hiện ở đâu?
Trường hợp nhiễm MERS đầu tiên là một bệnh nhân thiệt mạng ở Jeddah, Saudi Arabia hồi năm 2012. Kể từ đó đến ngày 31-5-2015, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xác định đã có 1.149 người nhiễm MERS với tỷ lệ tử vong là 40%. Phần lớn các vụ nhiễm MERS xảy ra ở Saudi Arabia, tuy nhiên một số bệnh nhân ở các vùng khác trên thế giới cũng nhiễm vi rút sau khi tiếp xúc với người đã mắc bệnh.
Các nhà nghiên cứu tìm thấy kháng thể chống MERS trong một số loài dơi, cũng như trong mẫu máu của lạc đà ở châu Phi và Saudi Arabia từ năm 1992 và 1993. Do đó, giới khoa học cho rằng vi rút MERS đã tồn tại trong lạc đà từ nhiều năm trước khi lây lan sang con người vào năm 2012.
MERS lây lan như thế nào?
Các nhà khoa học xác định vi rút MERS lây từ lạc đà sang người qua đường tiếp xúc với dịch cơ thể lạc đà như nước bọt, nước tiểu, phân, sữa lạc đà không tiệt trùng (một loại đồ uống truyền thống ở Saudi Arabia). Vi rút này lây từ người sang người qua tiếp xúc với dịch cơ thể của người bệnh.
Tuy nhiên giới chuyên gia không loại trừ khả năng MERS có thể lây lan qua đường không khí hoặc qua đồ vật, nghĩa là một người có thể nhiễm bệnh khi sờ vào đồ vật mà bệnh nhân MERS từng chạm vào. MERS cũng giống như “anh họ” SARS thuộc dòng vi rút corona, có khả năng đột biến cao. Ở thời điểm hiện tại, MERS chưa đạt khả năng lây lan nhanh để biến thành đại dịch.
Đối với các nhân viên y tế chữa trị bệnh nhân MERS, cơ quan y tế các nước khuyến cáo họ phải đeo khẩu trang, mặc áo choàng, đeo găng tay, đeo kính bảo vệ mắt, thậm chí phải sử dụng đồ bảo hộ kín mít. Bệnh nhân MERS phải được điều trị cách ly trong các phòng có hệ thống thông gió chuyên dụng, có khả năng ngăn chặn nguy cơ lây nhiễm qua đường không khí.
MERS ủ bệnh như thế nào?
Vi rút MERS có thể ủ bệnh trong cơ thể bệnh nhân từ 5 ngày đến 2 tuần trước khi các triệu chứng bệnh xuất hiện. Thường sau 4 ngày người bệnh suy kiệt và phải nhập viện và có thể qua đời sau 11,5 ngày. Những người bị tiểu đường, tim mạch, bệnh phổi, rối loạn miễn dịch... dễ phát triển các triệu chứng MERS sớm và nghiêm trọng.
Lúc ban đầu, các triệu chứng phát ra bao gồm sốt, ho, lạnh người, tiêu chảy, nôn mửa.... Sau đó người bệnh có thể bị viêm phổi và suy giảm chức năng các bộ phận trong cơ thể.
Chữa trị MERS như thế nào?
Hiện tại giới y học vẫn chưa phát triển được một loại vác xin nào để chống MERS, dù Viện Y tế quốc gia Mỹ (NIH) đang xem xét khả năng nghiên cứu chế tạo vác xin. Cũng không có loại thuốc đặc trị chống MERS nào. Tuy nhiên giới y tế các nước đã chữa trị được cho nhiều bệnh nhân bằng liệu pháp hỗ trợ chống lại các triệu chứng bệnh.
Hai chuyên gia Pearlman và Zumla cho biết đã có một số nghiên cứu cho thấy kháng thể từ máu người khỏi bệnh MERS có thể giúp chữa trị các bệnh nhân khác. Đây là một trong những phương pháp mà giới khoa học sử dụng để chống vi rút tử thần Ebola.
Phòng chống MERS như thế nào?
Do khoa học chưa tìm ra thuốc chữa MERS, các biện pháp phòng chống đóng vai trò hết sức quan trọng để ngăn chặn dịch lây lan. Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Mỹ (CDC) khuyến cáo người dân nên rửa tay thường xuyên bằng xà bông trong 20 giây, và khuyến khích trẻ em làm tương tự. Khi bị ho hoặc hắt xì, mọi người cần lấy giấy ăn che miệng và mũi, rồi vứt giấy vào sọt rác.
Cần phải tránh chạm tay chưa rửa vào mắt, mũi và miệng. Phải tránh tuyệt đối những tiếp xúc gần gũi với người mắc bệnh như hôn, uống chung ly. Và mọi người cũng cần liên tục làm sạch và tẩy trùng các đồ vật và bề mặt hay được chạm vào, ví dụ như nắm cửa. 
HIẾU TRUNG
​----------------------

Zubaida Hasan – A Miracle Story

  

Do gp phi tai nn đáng tiếc, 1 cô gái người Afghanistan đã b bng gn như toàn thân. Sau nhng n lc ca các bác sĩ M, cô gái tr đã được phu thut cy ghép mt đ tr nên xinh đp hơn.

Zubaida Hasan (khi đó m
i 9 tui) được sinh ra và ln lên trong 1 gia đình có 8 anh ch em tnh Farah, Afghanistan. Vào tháng 8/2001, mt tai nn đáng tiếc đã xy ra, cướp đi gương mt xinh đp cùng tương lai tươi sáng ca Zubaida. Do bt cn nên trong lúc đ thêm du vào bếp nu ăn ca gia đình, ngn la bt ng bùng lên ri nhanh chóng lan rng và trùm lên người khiến Zubaida b bng nng mt, c, ngc và cánh tay. Thm chí, sau tai nn này, gương mt ca Zubaida tr nên chy x, dính lin vi phn c và ngc phía dưới.
Gương mt biến dng hoàn toàn sau tai nn ca Zubaida.


Mc dù đã được cha đưa ti bnh vin ngay sau đó nhưng tình hình sc khe ca Zubaida ngày mt tr nên ti t. Sau đó, cha Zubaida đã quyết đnh đưa con gái ti Iran đ cha tr. Sau 20 ngày điu tr ti đây, Zubaida được cho xut vin. Các bác sĩ thông báo gia đình nên đưa Zubaida v nhà... ch chết. May mn, Zubaida không chết nhưng v tai nn đã khiến gương mt ca cô bé hoàn toàn biến dng, nhiu b phn trên gương mt cũng không th hot đng như bình thường.

Tháng 2/2002, theo l
i khuyên ca 1 người quen, cha ca Zubaida đã quyết đnh đưa con gái ti tr s quân đi ca M Kabul nhm tìm kiếm s tr giúp ca các bác sĩ người M. Ti đây, Zubaida đã được lc lượng quân y M giúp đ và gii thiu ti bác sĩ phu thut Peter Grossman, đến t trung tâm phu thut to hình Grossman Sherman Oaks, California.
http://
Gương mt sau khi được phu thut ca Zubaida.


V
i s giúp đ ca Qu bng tr em (Childrens Burn Foundation), 1 t chc t thin có tr s California, Zubaida đã được h tr kinh phí đ ti M điu tr trung tâm Phu thut to hình Grossman. Ti đây, Zubaida đã tri qua 12 ca phu thut ln trong vòng 1 năm, và ch trong khong thi gian ngn đó, Zubaida đã gn như "lt xác" và sng cuc đi tươi sáng hơn.

Zubaida chp nh cùng bác sĩ Peter Grossman (trái).


Sau khi được phu thut chnh hình, Zubaida cũng đã bt đu được đi hc ti trường tiu hc Round Meadow Calabasas, California. Cô bé có 12 tun hc tiếng Anh đ d dàng hc tp, làm quen vi môi trường mi. Ngoài ra, ti trường, Zubaida còn được tri qua nhng phép tr liu tâm lý và vt lý, cũng như làm quen vi rt nhiu bn bè. Chia s vi mi người v ước mơ ca mình, Zubaida cho biết cô bé mong mun tr thành 1 bác sĩ nhi và giúp xây dng đt nước khi trưởng thành.

M
c dù câu chuyn v Zubaida đã xy ra cách đây khá lâu nhưng cho đến hin ti, rt nhiu người vn không khi kinh ngc và khâm phc trước ý chí, s dũng cm ca cô gái bé nh cũng như s tn tâm và chuyên môn ca các bác sĩ đã giúp Zubaida có được gương mt mi.

Câu chuyn v Zubaida vn khiến rt nhiu người kinh ngc và khâm phc.


Có th
nói các bác sĩ M đã làm mt vic tuyt vi h đã cu được c th xác ln tâm hn ca cô gái
BS DOÃN CAO TRUNG  NÓI VỀ MÓN ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO 

GS Huỳnh Chiếu Dẳng

Ngoài cái món thường nhựt mà tụi nó bỏ vào "Cao Ly Sâm"(trồng ở Wisconsin) và "Thuốc Bổ tăng cường.... đủ thứ ": Anabolic steroids từ animal feed. Rẻ như bèo, nhưng rất dễ phát hiện.
Ngón đòn mới nhứt: Thyroid hormone cho thuốc làm xuống cân, tăng cường sinh lực.Số lượng qua activation threshold quá nhỏ, tính bằng microgramme nên thật khó phát giác.
Cho đến giờ, FDA cũng còn chưa có standardized bio- equivalency cho thyroid products từ các hãng khác nhau so với Armour thyroid, huống chi tìm trong adulterations. 
FDA không đủ ngân sách để phát hiện các thứ additives trong thuốc Đông y (it's a jungle out there !), nếu không xảy ra chết chóc tùm lum. Khổ nỗi, với feed back mechanism Thyroid gland/Hypothalamus, vô tình uống đậm thyroxine, (có ai thường theo dõi T3 T4 của mình đâu ?). Thyroid gland sẽ đóng cửa rút cầu không làm nữa thì mình sẽ bị "sập tiệm" mà không hay."Từ chết tới bị thương" !!!
Già rồi, đã về hưu từ lâu, không còn nói ai nghe nữa thì làm sao cảnh giác bà con đây. ?

Dược sĩ Trọng.

Người Việt Nam có tập quán cứ độ xuân về Tết đến, là dịp để biếu tặng nhau những món quà của ngon vật lạ hiếm quý, và hảo hạng, để tỏ lòng biết ơn kèm với những điều chúc tụng tốt lành. Những  gói quà tặng cao lương mỹ vị nào vi cá, nào yến sào, nào sâm, nhung, thần dược đủ loại, được chiếu cố và trân trọng nhất. Trong những năm gần đây, người ta thấy món quà tặng "thần dược" thật đắt tiền được khá nhiều người chiếu cố, vì được truyền khẩu là môn thuốc đại bổ lục phủ ngũ tạng, và trị được bá bệnh nan y; đó là vị thuốc đông y có tên "Đông Trùng Hạ Thảo". 

Vị thuốc này xuất xứ từ xứ Tàu, được đưa vào Việt Nam và được quảng cáo ra rả trên các báo, đài hải ngoại cùng với loài nấm Linh chi, coi như là thần dược quý hơn cả sâm, nhung, vi, yến nữa. Khách quý bạn  hiền tới nhà chúc Tết được chủ nhà lấy vài cọng "Đông Trùng Hạ Thảo" bỏ vào bình trà pha mời đãi khách uống để tỏ là thuộc giai cấp quý phái cao sang của thời đại đỉnh cao trí tuệ, khoa học kỹ thuật nguyên  tử ngày nay.

Chúng ta không phủ nhận được giá trị bổ dưỡng hay điều trị của Đông y dược mấy ngàn năm xưa nay, đã chứng tỏ khả năng trước cả thời đại phát triển Tây y. Chúng ta cũng không bàn tới óc mê tín vào khả năng "thần dược" của những người đang mắc phải những bệnh kinh niên, hiểm nghèo mà nền Tây y hiện đại đã bó tay. Họ coi thần dược như là chiếc phao cuối cùng để bấu víu. 

Chúng ta cũng không bàn tới khía cạnh thương mại, đem vị thuốc và khả năng trị bệnh lên màn quảng cáo rầm rộ ngoài đường phố vỉa hè. Chúng ta chỉ muốn nói ở đây những kiến thức khoa học để soi sáng câu chuyện về "Đông Trùng Hạ Thảo" đang là tề tài sôi sục khi đã có nhiều người chết, và nhiều người phải khiêng đi bệnh viện, vì đã ăn uống "Đông trùng hạ thảo". Vậy Đông trùng hạ thảo là cái gì? Nó là thức ăn, hay vị thuốc bổ, hay là vị thuốc  trị  bệnh  hay  là  thuốc  độc? 

Xin thưa ngay:  nó là cả 4 thứ đó tùy theo sự hiểu biết của mỗi người. Chúng ta nhớ lại câu chuyện trứng chim cút trước năm 1975 ở Sàigòn. Thời đó, người Tàu Chợ Lớn bí mật nuôi chim cút trong nhà để lấy trứng cút đóng hộp đem bán rất đắt kèm truyền khẩu quảng cáo rầm rộ trứng cút là vị thuốc đại bổ hơn cả vi, yến, sâm, nhung... Khi việc nuôi chim cút trong nhà bị lộ thì nhiều người Việt Nam bắt chước đua nhau bỏ vốn nuôi chim cút. Khi đó ngưòi Tàu đem bán hết chim cút đắt như vàng. 

Tiếp theo đó, người ta lại truyền khẩu tung tin đăng báo rầm rộ rằng ăn trứng cút sẽ bị bệnh cùi. Thế là mọi người không ai mua trứng cút nữa, và biết bao nhiêu người Việt Nam nuôi chim cút bị sạt nghiệp, mất hết vốn liếng nhà cửa. Còn người Tàu Chợ Lớn thì giàu sụ vì đã bán được hết trứng cút, và  chim  cút  giá  đắt.  

Không  ai  biết trứng cút là thức ăn, hay thuốc bổ, hay thuốc trị bệnh, hoặc thuốc độc ! 

Hiện nay, báo, đài đang quảng cáo rằng: Đông trùng hạ thảo là một loài rất đặc biệt không phải động vật mà cũng không phải là thực vật nên rất hiếm quý, và rất có giá trị dùng trong Đông y dược. Về mùa đông thì nó là động vật thuộc dòng côn trùng dưới đất,  về mùa hạ thì nó lại hóa thân mọc thành một cây thực vật thuộc dòng cây thảo. Mùa đông nó là loài côn trùng, mùa hạ là loài cây thảo; do đó phần gốc của nó có hình thù một con sâu mà phần thân ngọn của nó có hình một thân cây mềm nhỏ. 

Do đó, nó mang đủ vật liệu của hai loài động vật, và thực vật nên rất bổ dưỡng và trị được bá bệnh. Của lạ hiếm thường được coi là của quý. Việt Nam sau 1975, những người bị đi tù cải tạo không có đủ thức ăn nên trong trại tù bắt được con gì ăn con nấy, giun, dế, rắn, rít, bọ cạp... ăn hết ráo !!!.

 Dân chúng thì bắt đầu ăn đủ loại côn trùng như dế, rít, bọ cạp, ấu trùng ve...Các món này hiện nay được bán trong nhiều quán nhậu khắp nước. Rồi một hôm, người ta chở vào bệnh viện cấp cứu một nhóm người sau khi họ ăn nhậu món ấu trùng ve chiên bơ, có người lăn ra chết sau khi ăn xong, có người sùi bọt mép tê liệt, suy hô hấp, hôn mê chở vào bệnh viện cấp cứu. 

Chúng tôi bèn nhập cuộc nghiên cứu xem độc chất gì đã gây ra vụ ngộ độc sau khi ăn ấu trùng ve chiên bơ này. Chúng ta tự hỏi xưa nay người Việt Nam ta vẫn ăn ấu trùng tơ tằm (con nhộng) chiên bơ ngon bổ có sao đâu? Nhiều tiệm nhậu vẫn đang bán ấu trùng chiên bơ ăn có sao đâu? Chúng tôi theo chân bệnh nhân sau khi xuất viện về tận miền lục tỉnh nơi họ đã đào đất bắt ấu trùng ve để chiên bơ nhậu. 

Chúng tôi chứng kiến họ đào được những ấu trùng ve có hình thù khác nhau tùy theo giai đoạn phát triển, có con chỉ như con sâu, có con có đủ chân râu. Con nào đã già và mạnh khỏe thì còn thấy nhúc nhích. Con nào quá non và yếu thì nằm im re. Đồng bào miền tỉnh rủ nhau đi đào bắt ấu trùng bán cho các tiệm nhậu rất nhộn nhịp. Ấu trùng chiên bơ người ta ăn vẫn ngon lành hằng ngày ở tiệm nhậu như vậy không sao, nay có vụ ngộ độc thì ai cũng cho rằng do vấn đề vệ sinh quán ăn không bảo đảm gây nhiễm trùng thực phẩm mà thôi. 

Nhưng dưới con mắt chuyên khoa nhiễm độc thì vấn đề không đơn giản như vậy, vì triệu chứng ăn xong lăn ra chết vì sùi bọt mép, phù phổi, suy hô hấp, hôn mê không phải là triệu chứng của nhiễm trùng thực phẩm. Họ bị đầu độc bởi độc chất lén bỏ vào ấu trùng chiên bơ chăng? Nhưng ấu trùng đã ăn  hết đâu còn dư để đem xét nghiệm tìm độc chất lạ bỏ vào đó! Chỉ còn một cách là chúng tôi theo bệnh nhân tới tận nơi họ đã đào bắt ấu trùng để ăn, chúng tôi chứng kiến họ đào bới nơi mảnh đất ven rừng cách nhà họ không xa lắm. 

Chúng tôi đem các con ấu trùng này về phòng thí nghiệm của trường Đại học dùng kính hiển vi, cắt mỏng từng con ấu trùng ra để quan sát nội tạng của chúng xem có gì lạ không. Một kết quả thật bất ngờ làm chúng tôi ngạc nhiên là có con có đầy đủ nội tạng, có con nội tạng bị dị dạng, có con hoàn toàn không có nội tạng, mà chỉ toàn là một mô đặc đồng nhất. Quan sát kỹ mô đặc đồng nhất này dưới kính hiển vi thì thấy cấu trúc là những mô sợi dài đồng nhất. Chúng tôi nghỉ rằng đây là mô thực vật, và loài thực vật dạng sợi thì chỉ có thể là loài nấm dạng sợi. 

Quả thật như vậy, chúng ta đã biết rằng nấm là loài thực vật có chu trình phát triển rất đặc biệt. Đơn vị căn bản gốc của loài nấm là bào tử nấm. Bào tử nấm là tế bào gốc của nấm. Khi điều kiện độ ẩm và nhiệt độ thích hợp thì bào tử nấm nẩy nở mọc ra thành sợi nấm. Các sợi nấm của nhiều bào tử mọc dài dần thành một mạng sợi, hay bó sợi như một mớ tóc, hoặc bó tóc. Khi lật tảng đá hay thân cây mục lên khỏi mặt đất, chúng ta nhìn thấy ở mặt dưới tảng đá hay thân cây những sợi nhỏ li ti như tóc từng đám dính vào đá, vào  thân cây. 

Đó là các mạng nấm dạng sợi. Những mạng sợi nấm này có thể sống dưới đất như vậy vài trăm năm, hoặc ngàn năm. Trên nền tảng mạng nấm sợi đó, nếu có 2 bào tử nấm đực và cái gặp điều kiện độ ẩm và nhiệt độ thích  hợp  sẽ phối hợp nhau thành một bào tử nấm với 2 nhân và bào tử nấm 2 nhân này sẽ mọc thành một cây nấm con (Xin xem hình vẽ). 

Đầu thân cây nấm con sẽ phát triển thành nón nấm. Mặt dưới của nón nấm sẽ sinh sản ra các bào tử nấm mới. Trung bình một cây nấm sinh ra khoảng 15 tỷ bào tử nấm. Bào tử nấm khi bung ra khỏi nón nấm được gió thổi đi xa khắp bốn phương trời, rơi lại xuống đất, rồi tiếp tục chu trình tạo mạng sợi nấm mới và cây nấm mới. Thông thường về mùa hạ, sau một cơn mưa là độ ẩm, và nhiệt độ đất thích hợp nên nấm mọc lên ào ào trên mặt đất, trên thân cây mục, trên tảng đá phủ mùn thực vật. Chúng mọc rất nhanh, chỉ trong vài giờ đồng hồ thành cây nấm lớn. Nấm mọc rồi chỉ sống vài ngày là tàn lụn. 

Nấm có rất nhiều loại. Có loại ăn rất ngon như nấm rơm, nấm mèo, nấm mối. Có loại ăn rất độc chết người như nấm Phalloid, Muscarina. Đến đây thì chúng ta đã thấy tia sáng lóe ra ở cuối đường hầm của cuộc nghiên cứu tìm độc chất trong ấu trùng ve chiên bơ: những con ấu trùng ve đã gây ngộ độc chết ngưòi chính là những con ấu trùng đã bị nhiễm bào tử nấm độc! Thật vậy, trong mùa đông  xuân, côn trùng ve còn ở dạng ấu trùng non sống dưới đất. 

Chúng bị nhiễm bào tử nấm từ mạng nấm sợi trong đất. Bào tử nấm xâm nhập vô ấu trùng, và sẽ mọc thành mạng nấm sợi trong cơ thể ấu trùng. Mạng nấm sợi bị giới hạn bởi lớp da của ấu trùng nên phát triển thành một mô sợi đồng nhất khắp cơ thể ấu trùng, giết chết ấu trùng, và biến con ấu trùng ve thành một mô thực vật, có hình thù y nguyên hình thù của con ấu trùng. 

Qua mùa hạ, có mưa, tạo điều kiện độ ẩm, và nhiệt độ thích hợp cho những bào tử nấm đực và cái phối hợp mọc thành sợi cây nấm chui ra bằng lỗ miệng, hốc mắt của xác con ấu trùng rồi phát triển thành cây nấm lớn mọc lên khỏi mặt đất. 

Cây nấm này có phần gốc rễ nấm mang hình thù của xác ấu trùng, và phần thân nón mang hình dạng cây nấm của chủng loại nấm. Phần gốc là tàn tích của con ấu trùng mùa đông dưới đất nên gọi là ĐÔNG TRÙNG, phần thân ngọn là cây HẠ THẢO (Xin xem hình vẽ). Sản phẩm hóa kiếp nầy gọi là loài "Đông Trùng Hạ Thảo".Nếu bào tử nấm là thuộc loại nấm không độc, thì chúng ta có thể ăn được loại Đông trùng hạ thảo này vô hại. Nhưng nếu bào tử nấm thuộc loại nấm  độc Phalloid, hay Muscorina thì ăn loại Đông trùng hạ thảo này, chúng ta sẽ bị ngộ độc chết dễ như chơi. 

Triệu chứng lâm sàng của các nạn nhân trong nhóm người ăn ấu trùng chiên bơ bị ngộ độc nhập bệnh viện, có tất cả các triệu chứng của bệnh ngộ độc nấm Muscarina gây: sùi bọt mép, phù phổi, hôn mê, suy hô hấp, rồi chết. Chẩn đoán của chúng tôi do đó có xác định rõ ràng là nhóm người này đã bị ngộ độc nấm Muscarina khi ăn ấu trùng ve, vì cấu trúc của ấu trùng ve này dưới kính hiển vi là một cấu trúc mô sợi nấm, chứ không phải cấu trúc của nội tạng của con ấu trùng ve. 

Chúng tôi đã xác nhận lại chẩn đoán bằng cách quay trở lại nơi đào bắt ấu trùng, sau khi có các cơn mưa hạ thì thấy tại đó mọc lên rất nhiều nấm, mà phần gốc rễ nấm mang hình thù của ấu trùng ve. Khi đào bắt ấu trùng để ăn là mùa xuân chưa mưa, nấm chưa mọc nên còn ở dạng nấm mạng sợi trong cơ thể con ấu trùng, nhưng sự thật nó đã chết, và chỉ còn là cái xác chứa đầy nấm sợi, và bào tử nấm bên trong. Ăn phải tất nhiên chết vì nấm độc.

Chúng tôi không biết món của người Tàu hiện nay, họ đào nhổ ở đâu hay nuôi trồng cách nào để sản xuất đại trà đem bán làm "thần dược", nhưng chúng ta cần cảnh giác nếu có lẫn bào tử nấm độc, thì tai nạn lăn ra chết vì ăn uống Đông trùng hạ thảo là điều rất dễ hiểu. 

Bào tử của mọi loại nấm độc lẫn không độc đều sẵn có ở khắp mặt địa cầu, nên cơ hội cho nấm độc mọc khi gặp đúng điều kiện độ ẩm, và nhiệt độ không phải là hiếm khó. 

Khi bị ngộ độc không dễ gì tìm ra độc chất là gì, nếu không gặp được Bác sĩ chuyên khoa nhiễm độc, có kinh nghiệm để được chẩn đoán, và điều trị chính xác.

BS DOÃN CAO TRUNG.




__._,_.___


Posted by: <vneagle_1

Featured Post

Đây là lý do tại sao bạn nên nằm ngủ nghiêng về bên trái

  From: VUONG DANG < Date: Sun, Nov 22, 2020 at 8:10 PM Subject: Fw: Đây là lý do tại sao bạn nên nằm ngủ nghiêng về bên trái/Why Slee...

Popular Posts