Già
là gì? Bao nhiêu tuổi thì gọi là già?
Nếu dễ tính, ta có thể
chấp nhận câu trả lời giản dị: già là một giai đoạn của cuộc đời, cũng như giai
đoạn dậy thì của thiếu niên, trưởng thành của trung niên. Trong giai đoạn này,
người già có một số điểm giống nhau đủ để tạo thành một mô hình cho lứa tuổi
đó. Nhưng thực tế cho hay một định nghĩa như vậy chưa đủ để thỏa mãn nhiều
người.
Trong chu kỳ Sinh, Lão,
Bệnh, Tử, ta thấy khâu Lão tiếp nối khâu sinh. Như vậy phải chăng phương Đông
quan niệm rằng con người già ngay khi sanh ra đời. Rồi nếu ta ngẫm nghĩ về chữ
"Old" là già trong tiếng Anh thì ta thấy những sắc dân nói ngôn ngừ
này tuồng như cũng đồng quan niệm với người phương Đông về sự hóa già. Chả thế
mà họ gọi đứa bé vừa sanh ra được một giờ là "one hour old", và một
người chín mươi tuổi là "90 years old".
Nguyên Giám Đốc chương
trình An Sinh Xã Hội Hoa Kỳ Oscar R. Ewing đã có nhận xét: "Với con người,
không có một định nghĩa chính xác nào cho tuổi già của cơ thể. Cái mà chúng ta
liên hệ tới không phải là một nhóm người già mà là một nhóm bị người khác gán
cho nhãn hiệu già, mặc dù khả năng của họ khác nhau".
Vậy thì rất khó mà định
nghĩa hai chữ tuổi già hoặc là đặt một cái mốc để chỉ tuổi già trong quãng đời
con người. Phải chăng tuổi già là tuổi ��� giai đoạn cuối đời của con người?
Nhưng đời con người kéo dài bao nhiêu năm? Cách đây một thế kỷ, khi sống tới 40
tuổi, các cụ ta đã ăn mừng "tứ tuần đại khánh"; sống tới tuổi 70 thì
coi "như cổ lai hy". Ngày nay tuổi thọ trung bình của ta đã lên tới
70. Vậy thì sự già bây giờ tất phải đến trễ hơn.
Không căn cứ được vào số
năm để xác định tuổi già, thì phải dựa vào cái gì? Hay là cứ ví von như các cụ
xưa, hứa với nhau cho tới khi "đầu bạc răng long" ; hoặc nói về cái
mệnh đoản của người con gái đẹp mà ngâm nga câu "Mỹ nhân mệnh đoản như
danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạc đầu". Cái lối ví von đó có vẻ như
có căn bản khoa học đấy, vì răng long đầu bạc là một trong những dấu hiệu của
sự hóa già.
Các khoa học gia đã thử
lấy một số thay đổi của cơ thể khi về già làm mốc sinh học để định nghĩa sự
già.Thí dụ đến tuổi nào thì da bắt đầu nhăn, răng rụng, thính giác giảm.
Để có giá trị sinh học,
các mốc này phải tiên đoán được, không tránh được và không đảo ngược được. Mốc
thay đổi tùy theo người. Cho nên già có thể trông thấy như tóc bạc, da mồi; cảm
thấy như khi thấy mình mau mệt, không còn nhiều nhiệt huyết như tuổi đôi mươi.
Nói chung, giai đoạn lão
suy là khi con người bắt đầu có những biến đổi cơ thể theo chiều hướng đi
xuống, từ tốt sang xấu, cũng như có thay đổi về tính tình, cách đối xử. Da vùng
mặt và cổ bắt đầu nhão, tóc thành muối tiêu rồi bạc, khóe mắt xuất hiện nếp
nhăn, răng bắt đầu lỏng rụng.
Công năng cơ thể giảm sút như là ăn chậm tiêu,
ngủ ít, đại tiểu tiện bất thường, nói năng chậm, trí nhớ ngắn hạn sút kém. Vào
thời kỳ này, một số bệnh cũng có thể xuất hiện. Ngoài ra, một số người cũng trở
thành thụ động, phụ thuộc, không tham gia, có khuynh hướng sống lẻ loi, không đòi
hỏi.
Cũng nên nhớ là sự hóa
già ở nữ giới thường muộn hơn và họ cũng thọ hơn nam giới. Lý do có thể là các
bà chịu đựng dẻo dai với bệnh tật hơn các ông, giác quan của họ còn tinh tường,
trí nhớ tốt hơn. Nam giới có nhiều căng thẳng do việc làm, lại bị nhiều bệnh
tim mạch, ung thư, tai nạn hơn nên mau già.
Sự hóa già cũng tùy
thuộc vào nhiều yếu tố như di truyền, nếp sống cá nhân, môi trường chung quanh
cũng như quan niệm, thái độ trước sự hóa già.Ngoài ra, mỗi người già theo một
cách riêng biệt. Trong một cơ thể, mỗi tế bào, cơ quan cũng già theo nhịp độ
khác nhau.
Các loại tuổi già
Như đã nói trên đây, rất
khó mà định nghĩa tuổi già.
Nếu căn cứ theo tuổi
niên đại, tức là số năm con người sống từ khi sinh ra đời, thì tuổi già bắt đầu
từ tuổi nào? Năm mưới, bẩy mười hay hơn nữa. Những con số này đều vô nghĩa nếu
không có một hệ thống đo lường sự già đi kèm theo. Đó là tuồi sinh lý. Ví dụ
một người 50 tuổi mà tóc đã bạc, các chức năng cơ thể giảm sút thì người đó xem
như đã già. Trái lại một người ngoài tuổi 60 mà thân thể còn cường tráng, sinh
hoạt đều đặn thì người đó chưa thể được xem như là già.
Trong lãnh vực nghiên
cứu các nhà lão khoa đã phân chia tuổi già làm 7 loại mà khi nhìn kỹ ta có thể
thấy tại sao mỗi cá nhân già theo cách khác nhau.
1. Tuổi niên đại
Đây là tuổi mà ta nghĩ
tới trước tiên và là số năm con người sống trên trái đất kể từ khi thoát khỏi
lòng mẹ.
2. Tuổi di truyền
Khi cha mẹ ông bà thọ
lâu thì con cháu cũng có cơ hội sống lâu hơn, vì những hậu duệ này đã được
hưởng nhiều gene trường thọ nơi tiền nhân.
3. Tuổi theo thống kê
Đây là số năm trung bình
mà con người có hy vọng sống. Tuổi này thay đổi theo thời gian không gian và
theo giống tính, nghề nghiệp lối sống, tình trạng sức khoẻ.
4. Tuổi theo cấu tạo cơ
thể
Các bộ phân cơ thể khi
tới một tuổi cao nào đó sẽ có nhiều thay đổi về cấu tạo.Thí dụ như chiều cao
con người ngắn lại, thủy tinh thể mắt vẩn đục, thành động mạch cứng, tuyến giáp
teo. Thành ra dù ta không bị bệnh hoạn, tai nạn, tới một thời điểm không định
trước sự chết cũng xảy ra.
5. Tuổi sinh lý
Chức năng của các cơ
quan bộ phận con người trải qua nhiều thay đổi đưa tới sự suy yếu toàn diện.
6. Tuổi theo bệnh tật
Khi qua khỏi một cơn
bệnh hiểm nghèo nhiều người trông thấy cảm thấy như già đi cả chục tuổi.
7. Tuổi tâm lý
Tâm trí con người trải
qua nhiều thay đổi với tuổi cao nhưng thường chậm hơn so với các thay đổi khác.
Tiến trình lão hóa
Đứng về phương diện sinh
vật học rất khó mà xác định tiến trình lão hoá.
Những biến đổi sinh lý
xảy ra trong thời gian với thời gian chứ không phải vì thời gian đi qua.
Nhịp
độ thay đổi khác nhau tuỳ theo từng bộ phận, từng tế bào.
Tiến sĩ Leonard
Mayflick, một nghiên cứu gia ở viện nghiên cứu Vistar, Philadelphia, đã ví cơ
thể con người như là một tiệm bán sửa đồng hồ trong đó có rất nhiều đồng hồ mà
mỗi chiếc chạy theo mỗi giờ khác nhau. Các tế bào các cơ quan trong thân thể
con người hoạt động giống như những chiếc đồng hồ độc lập, theo nhịp độ khác
nhau trên tiến trình lão hoá.
Có người tuy tuổi niên
đai cao nhưng tuổi sinh lý thấp vì các cơ năng sinh lý của họ đã suy. Hiểu biết
về tuổi sinh lý do vậy rất cần thiết, tuy rằng khoa học chưa có phương pháp
chính xác để đo tuổi sinh lý.
Các nhà lão khoa đã thử
đo chiều dài của vành tai. cơ năng hoạt động của tim, sức mạnh của bắp thịt,
khả năng vận động thân thể, màu sắc của tóc v.v... với hy vọng tìm được một mẫu
số để đo lường và tiên đoán nhịp độ lão hoá. Nhưng họ đã không thành công vì có
quá nhiều yếu tố chi phối tiến trình lão hoá và những yếu tố đó đã vừa đa dạng
mà lại còn không đồng đều cho tất cả mọi người.
Tác giả Susanne Robb
viết về lão hoá như sau: "Lý thuyết gia nào thử giải thích hiện tượng lão
hoá của con người cũng vấp phải một sự thử thách lớn lao. Lão hóa có thể xem
như một mức độ tăng gia rất phức tạp của sự phát triển hay cũng có thể là một
quá trình đi đôi với sự suy thoái và mất mát.
Lão hóa có liên hệ với sự phản
ứng của cơ thể đối với các ảnh hưởng di truyền và môi sinh. Hơn nữa lão hóa là
một quá trình rất cá biệt, bị chi phối bởi nhiều nguồn ảnh hưởng tác động lẫn
nhau. Vì thế tuổi sinh lý đơn phương không thể dùng để tiên đoán một cách chính
xác tuổi thọ của một cá nhân".
Nói tóm lại, vấn đề sống
lâu là một vấn đề hoàn toàn cá biệt. Con người chịu ảnh hưởng của di truyền,
môi sinh, hoàn cảnh xã hội, lối sống cá nhân, tình trạng tâm thần v.v... nhưng
con người cũng có khả năng chi phối đời sống của mình về nhiều mặt để đạt được
mục đích sống lâu.
Con người có thể chận
đứng tiến trình lão hóa không? Tất nhiên là không. Nhưng con người có khả năng
giảm thiểu các chứng bệnh xẩy ra ở tuổi già tức là làm chậm tiến trình lão suy
với kết quả là kéo dài tuổi thọ.
Tuy nói sống lâu tùy
thuộc từng cá nhân, nhưng về phương diện môi sinh, vấn đề đó trở thành một vấn
đề của tập thể. Ví dụ trong một cộng đồng sống xúm xít gần nhau, cùng sử dụng
một nguồn nước chung, một khoảng không gian chung, thì mỗi cá nhân phải có bổn
phận giữ nguồn nước và không khí được trong sạch và tất cả mọi người trong cộng
đồng phải có cố gắng như nhau. Nếu một vài cá nhân trong cộng đồng đó cứ xả rác
vào nguồn nước và phun khói vào không khí, thì mọi người phải chịu ảnh hưởng
xấu.
Tuổi thọ của một cá nhân
tùy thuộc vào tình trạng môi sinh là thế. Cơ thể con người là một hệ thống mở
ngỏ, tác động qua lại với môi sinh, nhưng đồng thời cũng chịu đựng từ môi sinh
những nguy cơ và đe dọa đối với sự mất còn của nó. May mắn thay, cơ thể có một
hệ thống điều chỉnh tự động để tự bảo vệ. Ví dụ nếu áp huyết bị sụt thì tức
khắc hệ thần kinh phát ra tín hiệu để tăng nhịp tim đập, tăng lực co bóp của
tim, làm co thắt các mạch máu và kết quả là áp huyết được tăng trở lại mức bình
thường, trong một thời gian ngắn để chờ đợi sự điều trị.
Ngoài ra, còn có hệ
thống miễn nhiễm, miễn dịch để giúp bảo vệ cơ thể khi có sự xâm nhập của vi
khuẩn, siêu vi trùng, nấm (mầm bệnh). Do đó, những người bị bệnh AIDS hay SIDA
thường tổn mạng vì hệ thống miễn nhiễm bị siêu trùng này phá hủy.
Con người có thể sống
đến bao nhiêu tuổi?
Trong điều kiện lý
tưởng, ví dụ có gene di truyền tốt, có hệ thống điều chỉnh tự động tốt, có hệ
thống miễn nhiễm tốt, có hoàn cảnh môi sinh tốt, có điều kiện dinh dưỡng tốt,
có lối sống lành mạnh v.v... thì con người, trên lý thuyết, có thể sống rất
lâu. Theo Leonard Mayflick tuổi thọ tối đa của con người là từ 110 đến 120.
Những nhà nghiên cứu ở Đại Học California còn nâng tuổi thọ của con người lên
khoảng từ 120 đến 150 tuổi. Hiện nay, riêng tại Hoa Kỳ, số người sống trên 100
tuổi đã tới trên 60,000 và sẽ còn gia tăng.
Trong lịch sử nhân loại,
đã có nhiều người có tuổi thọ rất cao như: người Mỹ Delina Filking sanh ngày
4/5/1815, chết ngày 4/12/1928, thọ 113 tuổi; ngư phủ Nhật Bản chết năm 1986, thọ
121 tuổi; bà Jeanne Calment, người Pháp sanh tháng 2/ 1875, mất tháng 8/1997,
thọ 122 tuổi. Ấy là không kể các nhân vật trong Thánh Kinh sống cả ngàn năm như
Adam, sống trên 900 tuổi, Noah 950 tuổi, Methuselah sống tới 969 năm.
Giống như các động vật
có vú khác, loài người trải qua 3 giai đoạn sinh tồn như sau:
1. Giai đoạn phôi thai:
Giai đoạn này lệ thuộc
vào sự nuôi dưỡng của mẹ để phát triển, tạo hình và phòng chống những đe dọa
của môi sinh.
2. Giai đoạn tăng
trưởng:
Đây là giai đoạn mà cơ
thể đã đạt được sự cân bằng đối với môi sinh bằng cách bảo trì có hiệu quả các
chức năng của tế bào.
3. Giai đoạn lão hóa:
Trong giai đoạn này, khả
năng bảo trì và sửa chữa các tế bào dần dần kém hiệu quả, nhiều loại tế bào
chết đi và các chức năng của cơ thể suy giảm.
Các khoa học gia tin
rằng, con người có một tuổi thọ nhất định tùy theo các yếu tố di truyền và dù
cho có loại bỏ hết tất cả các bệnh có khả năng gây tử vong hay là những đe dọa
của môi sinh, thì tuổi thọ đó cũng chỉ tăng thêm 10 năm là cùng. Tuy nhiên tuổi
thọ đó là bao nhiêu cho từng cá nhân hay từng cộng đồng thì không xác định
được.
Những lý thuyết giải
thích sự hóa già
Về phương diện sinh vật
học, lão hóa là một đặc điểm của các sinh vật "cao cấp" trong đó có
loài người. Những sinh vật nguyên sinh ở cấp thấp như vi khuẩn (bacteria), loại
chỉ có một tế bào như protozoa đều không già. Những sinh vật này sinh sôi nãy
nở mà không cần phải có sự phối hợp của giống cái với giống đực, và đặc biệt
chúng chỉ có một hệ thống nhiễm sắc thể trong nhân tế bào.
Các sinh vật khác đều có
hai hệ thống nhiễm sắc thể, sinh sản qua sự phối hợp của giống cái và giống
đực, và bị chi phối bởi tiến trình lão hóa tự nhiên. Trong các sinh vật này chỉ
những yếu tố di truyền trong nhân của tinh trùng ở giống đực và trứng ở giống
cái là có khả năng bất tử, truyền từ đời này qua đời khác. Ngoài ra tất cả mọi
tế bào đều có tuổi thọ riêng rẽ.
Có nhiều tế bào không có khả năng phân thân và
do đó không thể tự sinh sản, như tế bào cơ tim, tế bào mô thần kinh của óc và tủy
sống. Nhiều tế bào khác có tuổi thọ tương đối ngắn và liên tục được thay thế
bởi những tế bào mẹ được phân thân rất chóng. Đó là những tế bào của máu, của
lớp màng lót trong bao tử và ruột, của lớp da bên ngoài.
Thời gian không làm cho
các tế bào già đi nhưng trong thời gian có những "đột biến" xẩy ra
khiến các tế bào bị ảnh hưởng và biến đổi, kéo theo sự biến đổi của cơ thể và
sự suy giảm của các chức năng sinh lý.
Để giải thích diễn tiến
lão hóa, nhiều khoa học gia đã đưa ra một số lý thuyết. Và lý thuyết cũng vẫn
là những gỉa dụ chứ chưa có sự đồng ý của mọi người.
Viện Lão Khoa Hoa kỳ
phân chia những lý thuyết này thành hai nhóm:
1. Nhóm lý thuyết căn cứ
trên sự sắp đặt theo thảo trình
Hóa già theo thảo trình
Cơ thể con người đã được
"thảo chương" theo những yếu tố di truyền để được sinh trưởng, lão
hóa rồi chết trong trật tự thiên nhiên vào một thời hạn đã định trước.
Ngay từ khi mới được thụ
tinh, gene di truyền của cha mẹ đã sắp đặt một hành trình bất biến mà con người
sẽ đi qua: thụ thai, phát triển thai nhi, sanh đẻ, tăng trưởng, dậy thì, trưởng
thành, tuổi già rồi tử vong. Ta thấy dậy thì xuất hiện vào tuổi 14-15, tắt kinh
khi người nữ tới tuổi 45-50, tóc bạc vào tuổi 55 trở lên.
Như vậy thì sự hóa già
đã được một đồng hồ gene sắp đặt sẵn để đến tuổi nào đó, cơ thể suy yếu, già đi
rồi mệnh một.
Thuyết kích thích tố
Trong cơ thể các hóa
chất này giữ nhiệm vụ quan trọng điều hành các chức năng như chuyển hóa căn
bản, lớn mạnh của cơ thể.. vậy thì các kích thích tố này cũng có thể kiểm soát
sự hóa già. Chẳng hạn kích thích tố tăng trưởng giảm dần với tuổi cao.
Thuyết miễn dịch
Cơ thể sinh ra đã được
trang bị một hệ thống phòng thủ chống sự xâm nhập của các vật lạ. Đó là sự miễn
dịch. Miễn dịch bảo vệ cơ thể bằng nhiều cách. Có thể là các bạch cầu trực tiếp
tấn công, vô hiệu hóa vi trùng, nấm bệnh. Có thể là các bạch cầu đặc biệt tạo
ra chất kháng thể, lưu thông trong máu và vô hiệu hóa tác nhân ngoại nhập.Lý
thuyết này dựa vào hai nhận xét.
Thứ nhất là với tuổi già, cơ thể sản xuất ít
kháng thể đồng thời phẩm chất cũng kém. Thứ hai là với tuổi già, cơ thể đôi khi
lại tạo ra kháng thể chống lại chính các phân tử cấu tạo cơ thể, đưa tới bệnh
hoạn, suy yếu. Như trường hợp viêm khớp ở người cao tuổi. Một thí dụ nữa là khi
bị bệnh cảm cúm thì sức chịu đựng của người cao tuổi kém người trẻ và lâu bình
phục hơn.
2. Thuyết về sự lầm lẫn.
Lầm lẫn có thể do:
Sự hư hao, tả tơi.
Cơ thể với các chức năng
hao mòn theo thời gian vì những va chạm, xâm lấn. Nếu không được tu bổ, chữa
trị thì cơ thể sẽ bị tiêu hủy. Thuyết này được bác học người Đức August
Weismann đưa ra năm 1882. Theo ông ta, sự chết xẩy ra vì khi một mô hư hao
không bao giờ tự nó tân trang được. Sự hư hao tả tơi còn làm xói mòn các diễn
tiến sinh hóa bình thường trong cơ thể.
Theo Dan Georgakas, cơ
thể già vì thường xuyên bị tác hại bởi các áp lực từ bên ngoài như xúc động, va
chạm thực chất, nhiễm độc môi trường.
Phản ứng tròng tréo
Chất tròng tréo thường
thường là một hóa chất cột hai phân tử riêng rẽ với nhau. Sự tròng tréo (cross
linkage) chất đạm làm tổn thương mô và tế bào, ngăn cản sự thu nhập chất dinh
dưỡng, giảm bài tiết chất phế thải, đưa tới sự suy yếu cơ thể.
Sự tròng tréo
thường thấy ở các phân tử đạm trong chất tạo keo khiến cho da khô, nhăn, không
đàn hồi. Thuyết này cũng liên hệ tới sự sử dụng chất đường. Khi đường vào máu,
nó sẽ bám vào chất đạm, làm đạm chuyển sang mầu vàng, không dùng được và thành nguy
hiểm cho cơ thể.
Thuyết về sự tích lũy
những sai lầm.
Để tăng trưởng, cơ thể
liên tục biến chế các phân tử đạm và DNA. Nhưng những phần tử này không phải
lúc nào cũng được sản xuất hoàn hảo. Có nhiều tổn thương trong việc tổng hợp
chất đạm, tạo ra chất đạm bất thường mà khi tích tụ với nhau sẽ gây hư hao cho
tế bào, mô và các bộ phận. Theo thuyết này, khi ta về già thì cơ thể dễ phạm
các lỗi lầm kể trên, đưa đến sự già.
Trong quá trình biến hóa
của từng tế bào, có sự tích lũy các chất phế thải. Sự tích lũy này có thể xem
như một phần của tiến trình lão hóa. Về phía các tế bào không có khả năng phân
thân như tế bào cơ tim, thận và não, có một sự tích lũy dần dần của nhiều chất
liệu mà các khoa học gia có thể nhận ra dưới kính hiển vi nhờ một phương pháp
nhuộm màu đặc biệt.
Một trong những chất đó là "lipofuscin", một chất
mềm biểu hiện tình trạng "hao mòn tả tơi" của mô bào về già.Khoa học
chưa tìm được nguồn gốc và ảnh hưởng của lipofuscin, mà chỉ biết rằng nó tích
lũy trong não bộ người già và có thể loại khỏi cơ thể bằng vài dược phẩm. Người
ta cũng đang nghiên cứu coi sự loại trừ này có lợi hoặc có hại cho cơ thể.
Trong tế bào và mô lành
mạnh luôn luôn có một sự luân chuyển các thành phần hệ trọng như: diêu tố, kích
thích tố, và hóa chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh. Trong mỗi quá trình luân
chuyển thường có khả năng xẩy ra những sai lầm. Nếu những sai lầm đó tích lũy
tới một mức độ cao thì tế bào hoặc mô trở thành bất khả dụng và có thể chết. Ví
dụ nếu một hóa chất ở tế bào não bộ bị suy thoái thì dù cho những tế bào đó còn
sống nhưng não bộ cũng mất chức năng điều khiển các bộ phận trong cơ thể.
Nếu những tế bào khiếm
khuyết sinh sôi nẩy nở thì dù cho chúng không nằm trong những cơ quan điều
khiển cơ thể, toàn bộ cơ thể cũng có thể bị hủy hoại dẫn đến tử vong, như
trường hợp các bệnh ung thư
Tích trữ những đột biến.
Thuyết này liên quan tới
các tế bào thân (somatic cells) là loại tế bào luôn luôn sinh sản và hủy diệt.
Gene trong tế bào bị ảnh hưởng của các tác nhân nguy hại như tia phóng xạ, hóa
chất độc, thay đổi cấu tạo, khiến tế bào hư hao, chức năng lệch lạc, cơ thể kém
hoạt động. Sự đột biến có thể truyền sang thế hệ kế tiếp của tế bào.
Thuyết về gốc tự do.
Sự tích lũy các tổn thất
của tế bào do gốc oxy gây ra làm cho cơ thể ngưng hoạt động một ngày nào đó. Đó
là thuyết gốc tự do.
Gốc tự do (free
radicals) là một phân tử hóa học có một số lẻ điện tử, rất không cân bằng. Khi
một gốc tự do bám vào một phân tử lành mạnh thì nó lấy đi một điện tử và biến
phân tử lành thành ra có hại. Phản ứng cứ liên tục xẩy ra sẽ đưa tới xáo trộn
các cấu tạo và chức năng cơ thể, đưa tới lão suy, ung thư, xơ cứng động mạch,
cao huyết áp.
Kết luận
Trên đây là tóm lược các
lý thuyết cố giải thích sự hóa già của cơ thể. Thuyết nào nghe cũng thuận tai
nhưng chưa được chứng minh, không có đủ dữ kiện khoa học để hỗ trợ. Và vẫn là
lý thuyết.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
__._,_.___
No comments:
Post a Comment