Sốt là gì?
Bác sĩ Nguyễn Ý- Đức
Bác sĩ Nguyễn Ý- Đức
Nhiều nhà chuyên môn đề nghị chính xác hơn: sốt là khi nhiệt độ lên cao vì một bệnh nào đó chứ không phải vì các lý do thông thường như sự tiêu hóa thực phẩm, khi có cảm xúc mạnh, khi vận động cơ thể, có thai, có kinh nguyệt…
Cẩn thận hơn, có người thêm là nếu nhiệt độ cơ thể lên quá 37.2°C kèm theo đổ mồ hôi, hơi thở nhanh, mạch máu ngoài da giãn nở, đó là sốt.
Nhiệt độ bằng hoặc cao hơn 38°C (100°F) khi đo ở hậu môn, hoặc cao hơn 37.5°C (100.4°F) khi đo ở miệng là sốt.
Ở người bệnh, nhiệt độ được đo ba lần trong ngày, được ghi lên một biểu đồ để giúp theo dõi bệnh trạng. Một số bệnh có những cơn sốt đặc biệt, cho nên biểu đồ nhiệt độ cũng giúp chẩn đoán bệnh. Chẳng hạn:
– Sốt định kỳ (relapsing fever) với vài ngày nhiệt độ lên cao rồi vài ngày bình thường như trong bệnh sốt rét.
– Sốt lên xuống hai lần trong ngày ở bệnh viêm khớp, thấp khớp.
– Sốt liên tục (continuous fever) trong ngày như viêm sưng phổi.
– Cơn sốt tăng giảm từng lúc (remittent fever) như trong bệnh lao phổi với nhiệt độ buổi sáng cao hơn buổi chiều.
– Sốt từng hồi hoặc gián đoạn (intermittent fever)
Sốt diễn ra theo ba giai đoạn:
a- Cơ thể phản ứng với tác nhân gây sốt bằng cách tăng bạch cầu, nhiệt độ lên cao, da lạnh, cơ thể run rẩy, mạch máu ngoại vi co hẹp, lông tóc dựng đứng, da xanh nhợt, khô.
b- Trong giai đoạn 2, nhiệt độ giữ ở mức cao, cơ thể hết run
c- Sau đó, nhiệt độ giảm, mạch máu ngoại vi giãn nở, đổ mồ hôi, da lạnh và trở lại mầu sắc bình thường.
Sốt có thể ngắn hạn hoặc dài hạn. Ngắn hạn thường là khoảng 2 tuần lễ, trong các trường hợp nhiễm vi khuẩn. Dài hạn lâu hơn hai tuần lễ như trong trường hợp ung thư hoặc sốt không rõ nguyên nhân (FUO).
Theo các khoa học gia, một cơn sốt nhẹ làm tăng interferon, một chất thiên nhiên chống virus và ung thư; tăng khả năng diệt vi khuẩn của bạch huyết cầu và lymphô bào. Nhiệt độ cao cũng gây cản trở cho sự tăng sinh của vi khuẩn.
Quan sát ở súc vật, người ta thấy khi một con thằn lằn bị vi khuẩn xâm nhập, nó sẽ bò ra phơi mình ngoài nắng để tăng nhiệt độ cơ thể.
Nguyên nhân gây sốt
Sốt có thể gây ra do các nguyên nhân từ ngoài hoặc từ trong cơ thể
1- Nguyên nhân từ ngoài cơ thể:
– Nhiễm các loại vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng.
– Dưới tác dụng của vài dược phẩm như kháng sinh nhóm Penicillin, sulfonamid, thuốc chữa bệnh lao, thuốc an thần loại barbiturates, thuốc chống kinh phong phenytoin, thuốc sổ táo bón, chất interferon, các loại thuốc kích thích (Ectasy, angel dust…)
– Tiêm vài chất đạm lạ đối với cơ thể như các loại globulin trị bệnh uốn ván
– Truyền máu.
– Thời tiết oi ả, nóng bức, tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời.
2- Nguyên nhân từ cơ thể:
– Do sự hủy hoại tế bào sau thương tích, thiếu dinh dưỡng, viêm sưng mô bào, bệnh của các mô liên kết như thấp khớp, lupus ban đỏ SLE, thống phong, xuất huyết dạ dày, thiểu máu các cơ quan (nhồi máu cơ tim, lá lách…)
– Phản ứng miễn dịch của cơ thể khi vật lạ xâm nhập.
– Các trường hợp tế bào mới tăng sinh bất thường như trong khối u ác tính hoặc lành tính. Nhiệt độ có thể kéo dài cả tháng, đôi khi cả năm và là vấn đề nguy hiểm cần để ý.
– Rối loạn chuyển hóa cấp tính như trong cơn cường tuyến giáp, bệnh thống phong.
– Tình trạng khô nước trong cơ thể.
– Có nhiều trường hợp sốt vì thay đổi trực tiếp của trung tâm điều hòa thân nhiệt chứ không do tác nhân gây sốt từ ngoài hoặc trong cơ thể. Chẳng hạn khi bị u bướu, xuất huyết hoặc khối huyết não.
– Xúc động mạnh cũng làm thân nhiệt tạm thời lên cao. Có nhiều trường hợp, khi mới nhập viện, nhiệt độ lên cao trong vài ngày rồi giảm, vì người bệnh lo sợ bị bệnh nặng.
Một số loại sốt mang địa danh quốc gia như sốt Dương Tử Giang với nhiễm Schistosoma japonicum, sốt xuất huyết dịch Korea, sốt đảo Chypre do nhiễm khuẩn Brucella melitensis, ban nhiệt Sao Paulo, sốt định kỳ Mỹ USA recurrent fever…
Ðiều trị sốt
Đa số các bác sĩ đều có chung ý kiến là, để giảm sốt phải điều trị nguyên nhân gây ra sốt. Chẳng hạn như khi sốt do vi khuẩn gây ra thì phải dung trụ sinh để tiêu diệt vi khuẩn.
Với trẻ em, theo Hội Nhi Khoa Hoa Kỳ, sốt dưới 38.9°C (102°F) không cần điều trị, trừ khi các em cảm thấy khó chịu hoặc đã bị kinh phong trong quá khứ.
Cần theo dõi tình trạng bệnh. Nếu em bé vẫn tỉnh táo, tươi cười, da dẻ hồng hào, ăn uống, chơi đùa, ngủ nghỉ như thường, thì không cần cho uống thuốc giảm nhiệt. Ngược lại khi sốt cao và gây khó chịu cho bé, có thể cho uống thuốc hạ nhiệt độ hoặc chườm lạnh.
a- Thuốc chống sốt
Thuốc giảm sốt đều rất công hiệu nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ và không nên dùng cho mọi loại sốt mà phải căn cứ vào tùy trường hợp, đặc biệt là ở trẻ em. Sốt có thể có vài ích lợi cho người bệnh. Theo nhiều nhà chuyên môn y học, chữa sốt khi nào bệnh nhân cảm thấy khó chịu và để tránh kinh phong, khô nước, rối loạn tuần hoàn, hô hấp.
Aspirin và acetaminophen là thuốc giảm sốt thường dùng nhất. Tuy nhiên, aspirin không được dùng cho trẻ em dưới 18 tuổi hoặc khi bị nhiễm virus, để tránh Hội chứng Reye. H.C..Reye là rối loạn trầm trọng, có thể chết người, thường ảnh hưởng tới gan và tế bào não. Ngoài ra cũng có thể dùng Ibuprofen.
Theo ý kiến chung của y giới, acetaminophen vẫn là thuốc an toàn và ưa thích hơn cả để trị nóng sốt.
Liều lượng phải căn cứ vào sức nặng cơ thể chứ không theo tuổi. Nên hỏi bác sĩ hoặc đọc kỹ hướng dẫn trên chai thuốc.
b- Chườm nước ấm.
Ðể em bé ngồi trong chậu nước ấm cao độ 4 phân. Thấm nước ấm với một cái khăn, lau nhẹ lên thân mình và chân tay. Nước sẽ làm nhiệt độ trong cơ thể giảm xuống qua sự bốc hơi. Tiếp tục làm như vậy cho tới khi nhiệt độ cơ thể giảm xuống (khoảng nửa giờ).
Đừng chườm nước lạnh hoặc túi nước đá vì có thể làm bệnh nhân run và tăng nhiệt độ. Không thoa dầu nóng hoặc cồn để tránh ngấm qua da, gây ngộ độc.
c- Giữ nhiệt độ trong nhà mát dịu.
d- Không nên mặc quá nhiều quần áo.
đ- Cho uống nhiều nước (nước lã hoặc nước trái cây).
e- Ðể em bé chơi tự nhiên chứ đừng ép nằm trên giường.
g- Ăn uống tùy theo sự chịu đựng của người bệnh, nhưng không nhiều chất béo, khó tiêu hóa.
Thông báo cho bác sĩ nếu em bé dưới 3 tháng sốt tới 38°C (100.4°F) hoặc em bé lớn hơn với nhiệt độ trên 40°C (104°F), đồng thời không chịu ăn uống, bị tiêu chẩy, ói mửa, cơ thể có dấu hiệu khô nước, kêu đau nhức cuống họng, tai…
Với người lớn, đối phó với sốt cũng tương tự như ở trẻ em. Ðiều quan hệ là quan sát phản ứng của cơ thể đối với sốt.
Nếu trong người thấy rất khó chịu, mệt mỏi thì uống vài viên thuốc chống sốt rồi nghỉ ngơi, uống nhiều nước. Giới hạn nước uống có caffeine vì chất này tăng nhiệt độ cơ thể và chặn tác dụng hạ nhiệt của thuốc chống sốt..
Ở cả người lớn lẫn trẻ em, nên tới bác sĩ để khám bệnh, chữa trị khi:
a- Sốt với nhức đầu, cứng cổ, mệt lả, mất phương hướng, lên cơn co giựt
b- Sốt trên 40ºC (104ºF) không thuyên giảm với chăm sóc tại nhà
c- Sốt kéo dài quá ba ngày
d- Sốt vừa phải nhưng kéo dài cả hai ba tuần lễ.
Bác sĩ Nguyễn Ý- Đức
__._,_.___
No comments:
Post a Comment