On Thursday, 18 June 2015, 8:36, Hoa Nguyen <> wrote:
Kính chuyển, tài liệu
quan trọng.
Tài liệu này rất có giá
trị, mời các Cụ đọc chậm và suy nghĩ để uống thuốc và trị bệnh.
Hòa
Tiết lộ chấn động về
thuốc Tây Y và phương pháp điều trị ung thư
Để mở đầu bài viết xin trích dẫn câu nói khá nổi tiếng ” Ngàn lần nói sai thành chân lý”, đa số chúng ta khi sinh ra tới khi chết đi nếu bạn không tinh ý bạn sẽ bị dẫn dắt bởi giáo dục, truyền thông đang hàng ngày “tẩy não” chúng ta một cách hết sức tinh vi và có hệ thống .
Tây Y (Western medecine) đã tiến bộ và phát triển mạnh mẽ trong khoảng 100 năm trở lại đây, Bên cạnh những thành tựu xuất sắc, đặc biệt của các trị liệu bằng phẫu thuật, vi phẫu thuật, đặt implant, thay ghép tạng, sử dụng tế bào mầm v.v…người ta nhận ra là vẫn có một bộ phận của Tây Y trở nên ì ạch không phát triển gì nhiều. Đó là sự tồn đọng của nhiều bệnh (thường gặp) mà nguyên nhân vẫn còn không được biết rõ! Và vì thế, những trị liệu hiện nay chỉ có tính cách trị triệu chứng (symptom relief) hoặc trị liệu tạm thời (palliative care). Ví dụ bệnh suyễn, bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh vảy nến, bệnh vảy cá (ichthyosis) v.v và v.v…nhất là Tây Y chưa giải quyết được một bệnh ác tính đang tăng nhanh trong thời đại này, đó là bệnh ung thư.
Khi nhìn về y học cổ truyền, thì người ta lại nhận ra rằng y học cổ truyền đã thất lạc mất rồi. Dù đã được phục hồi phần nào trong thời gian gần đây nhưng nền y học cổ truyền đã bị thất lạc rất nhiều kiến thức mà nó đã xây dựng qua hàng ngàn thế kỷ! Điều đáng sợ, là không phải nền y học cổ truyền tự nó suy tàn, mà nó đã bị “bức tử” trong đầu thế kỷ 20.
Có thông tin cho rằng chính giới tài phiệt của nước Mỹ, vì cạnh tranh, đã tiêu diệt nền y học cổ truyền với mục đích kiếm lợi!
Dĩ nhiên một người sáng suốt sẽ không quá khích (như những người chủ trương thuyết âm mưu) cho rằng nền Tây Y là không giá trị. Ngược lại, phải thấy rõ cái vĩ đại mà ngành Y bây giờ đã đạt được trong thời gian ngắn khoảng 100 năm trở lại đây. Phải thấy biết ơn những gì mà giới tư bản đã đóng góp cho các trường Y trên thế giới, giúp ngành Y có được những thành tựu như ngày nay.
Nhưng, không vì thế, mà ta không biết một chút về mặt trái của tư bản, của cái gọi là Quỹ Rockefeller.
Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ- FDA
“Vấn đề của các hệ thống y tế là nó được điều hành bởi các nhà tài phiệt để phục vụ cho các mục đích tài chính. Nó chẳng sinh lợi gì trừ khi có người bị bệnh, do đó toàn bộ hệ thống y tế được thiết kế để làm con người càng ngày càng bệnh tật nhiều hơn.”
(Tiến sĩ bác sĩ Guylain Lanctor, tác giả của ‘The Medical Mafia: How to Get Out of It Alive and Take Back Our Health & Wealth’ )
Việc tẩy não quần chúng được ngành Dược được bắt đầu rất sớm.
“Ai nắm giữ quá khứ sẽ kiểm soát tương lai. Ai nắm giữ hiện tại sẽ tóm gọn quá khứ” phải có sự hiểu biết cặn kẽ về Cục Quản lý Thuốc và Thực Phẩm Hoa Kỳ (US FDA), nhất là về những cộng sự và lịch sử tăm tối của Cục - George Orwell’s (in Nineteen eighty four)
Cục quản lý thuốc và thực phẩm (F.D.A) lúc mới bắt đầu thành lập chỉ là một ban quản lý hóa chất (Division of Chemistry), thời gian sau được gọi là Cục quản lý hóa chất (Bureau of Chemistry), mãi về sau mới đổi tên thành F.D.A.. Cái tên đã được thay đổi nhằm che dấu các dự án hóa chất công nghiệp. Cơ quan này cấp cho các công ty tư cách pháp lý để đưa hóa chất vào thực phẩm và giúp các hãng dược phẩm bằng cách chứng nhận “được FDA chấp thuận”. Người dân sẽ không có bằng chứng pháp lý nào để chống lại ngành công nghiệp hóa chất được.
Công việc thực sự của nó đã và đang làm là “thông qua” hoặc “xử phạt” những sản phẩm thuộc ngành công nghiệp hóa chất. và với quyền lực này, nó che dấu một cách hợp pháp cho những hóa chất trong ngành công nghiệp, bằng cách tuyên bố …cái gì mới là “an toàn”.
Nó đều đặn chia sẻ những dữ liệu được bảo mật với các nghiệp đoàn hóa học cộng sự, để làm giảm nhẹ trách nhiệm. Ví dụ, những thông tin ô nhiễm mà họ đã ém nhẹm trước công chúng. Đây là những vấn đề thuộc “quan hệ công chúng”
Mô hình F.D.A hiện đại hơn được tiến hành vào năm 1913—trong cùng một thời điểm thành lập ra quỹ Rockefeller. Tay nắm tay, FDA – Quỹ Rockefeller và Hiệp hội y tế Hoa Kỳ (AMA) cùng nhau hoạt động sát cánh.
Quỹ Rockefeller được thành lập vào năm 1913, với mục đích trọng yếu là nhắm vào lãnh vực y học và đào tạo y khoa. Tài trợ ban đầu của Rockefeller cho trường y đạt trên 550.000.000 dollar. Chỉ trong năm 1928, Quỹ Rockefeller đã tài trợ tiền cho 18 trường Y trên khắp 14 quốc gia. Từ đó, những cộng sự của Rockefeller tại FDA đã bắt đầu thúc đẩy cuộc cạnh tranh khốc liệt với tất cả các loại thuốc nào được coi là “đối lập” với ngành công nghiệp hóa chất.
“Tôi sẽ không đời nào công nhận mọi loại thuốc mới nào, trừ phi loại thuốc ấy đến từ một hãng dược khổng lồ với những nguồn tài chính vô hạn. “ - Tiến sĩ Richard J.Crout, giám đốc của cục quản lý thuốc của FDA (Spotlight, 18 tháng 1, 1982)
Các loại thảo dược bị đàn áp là tất cả thứ mà FDA không thể kiểm soát, và khống chế bằng các tấm bằng sáng chế (patent). Thuốc từ tự nhiên sẽ chẳng bao giờ có thể được cấp bằng sáng chế cả! Đó là lý do tại sao tất cả các liệu pháp thiên nhiên và không gây độc hại hiển nhiên trở thành “thuốc bịp bơm” theo cách gọi của FDA, của ngành công nghiệp hóa chất, và của ngành y! Ngược lại chỉ có những hóa chất trái với tự nhiên (như phi hữu cơ và chất độc ) là có thể được cấp bằng sáng chế, và những loại thuốc không chứa độc tố được xem là một mối đe dọa trong việc kinh doanh thuốc.
“FDA bảo vệ các tập đoàn dược phẩm lớn, sau đó được nhận lại sự khen thưởng. FDA sử dụng quyền lực của chính phủ, họ tấn công những ai gây nguy hại cho các hãng dược lớn. Người dân nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Nhưng không phải thế!. Những gì mà FDA đang làm và những gì mà người dân tưởng như vậy, thực sự hoàn toàn trái ngược như ngày với đêm.” - Tiến sĩ Herbert Ley, cựu thành viên hội đồng của FDA
“Vào năm 1919, việc Rockefeller trao tặng một số trường y ở Canada 5.000.000 dollar đã góp phần tạo nên nền giáo dục y khoa Canada đến tận thế kỷ 20.
Y học thời đó làm gì có cái thị trường sinh ra lợi lộc như bây giờ, thế nên các trường y đã phải nương nhờ vào các khoản viện trợ của Rockefeller (dành cho những trường đào tạo đạt yêu cầu). Ngành Y nhận tài trợ và chấp nhận điều kiện của Rockefeller là phải tuân thủ các quy định:
- Một là, từ bỏ các thể loại y học cổ truyền thống và các dược liệu tự nhiên, thay vào đó là một thế hệ mới các sản phẩm thuốc từ các dẫn xuất hóa học.
- Hai là phải xóa bỏ toàn bộ nền y học của quá khứ. Điều gì đã xảy ra để khơi mào cho nạn đốt sách ở khắp nơi? Trong một vài trường hợp, chính FDA đã thiêu hủy sách. Quả là một thời kỳ gian nan cho các bác sĩ theo truyền thống trị liệu tự nhiên (traditional naturalpathic)
Nhà tài phiệt Rockefeller
Tất cả những ai bất đồng chính kiến, cố nắm giữ quá khứ, có quan điểm tổng quan (holistic), dùng các liệu pháp thiên nhiên để chữa bệnh, từ nay sẽ được xem như bị quỷ ám, một dạng “lang băm” đối với hệ thống đào tạo y khoa chính quy, dù cho đó có là những “lang băm” từng đoạt giải nobel y học, và kết quả thu được sâu rộng đến chừng nào.
…Có các vitamin hay sữa tươi có thể thực sự tiêu diệt các tế bào ung thư. Điều đó có nghĩa là có khi chỉ cần thực dưỡng mà chẳng cần phải có các bác sĩ với những phương pháp chữa bệnh nào nữa. Thực dưỡng như vậy là bất hợp pháp, dù bằng cách này hay cách khác, vì chẳng có một phương pháp thực dưỡng nào được “chấp thuận” cả..
Đã có một mối quan hệ bất chính được hình thành giữa hiệp hội Y học Hoa Kỳ, FDA, và Quỹ Rockefeller. Để đảm bảo sự tuân thủ hợp đồng của các trường Y, quỹ Rockefeller thường xuyên nhấn mạnh các trường Y phải đặt nhân viên của Quỹ Rockefeller vào ban giám đốc điều hành.
Hệ thống pháp lý mới củng cố sự độc quyền của ngành Y, cùng với sự độc quyền ở lĩnh vực công nghiệp hóa dầu của Rockefeller trong quá khứ. Thay vì chỉ sở hữu tất cả các nguồn dầu khí, đế chế Rockefeller hiện nay đã kiểm soát hầu hết tất cả các loại thuốc men tiêu dùng. Nó sở hữu vị chúa sơn lâm, được gọi là “công nghiệp dược phẩm”, mà trước đây là ngành công nghiệp hóa chất. Lại một lần nữa, thuốc men sẽ được kiểm soát và điều chế để chống lại người dân Mỹ. Hệ thống từ đó phân nhánh vươn ra trên toàn thế giới.
Suốt cả cuộc đời, ngài John D. Rockefeller đã từ chối uống loại thuốc thế hệ mới! Trái lại, cả đời ngài lại sử dụng những phương pháp có tính toàn diện của y học truyền thống cho mục đích sức khỏe của chính mình. Nhiều người bạn của ngài tại FDA và AMA cũng cùng một kiểu như thế.
Sau khi Rockefeller cưỡng chiếm các trường Y, thì các bệnh chết người như bại liệt- tim- và ung thư thực sự bùng phát.
Từng có một chuyên gia u não chiễm trệ trong phòng khách của tôi bảo với tôi rằng, anh ta sẽ chẳng bao giờ xạ trị, nếu như chẳng may bị u não đi nữa. Và tôi hỏi anh ta rằng, “thế chẳng phải anh vẫn chuyển người ta đến khu xạ trị sao?” anh ta điềm nhiên trả lời “ phải thế thôi, nếu không tôi sẽ bị tống cổ khỏi bệnh viện” (Tiến sĩ, bác sĩ Ralph Moss.)
Nếu mắc bệnh ung thư thì: 90% bác sĩ ung thư học (oncologist) sẽ không bao giờ chấp nhận chiếu xạ cho ung thư phổi. 84% sẽ không chấp nhận hóa trị cho ung thư đại tràng.
Nghiên cứu của đại học Harvard được công bố tại viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ : “Có sự khác biệt về sự thuận tình chấp nhận các liệu pháp kháng ung thư của các bác sĩ chuyên khoa ung thư khi chính họ bị bệnh”
Xạ trị, hóa trị những điều bạn chưa biết :
Liệu pháp hóa trị và xạ trị được cho là phương pháp điều trị ung thư khoa học nhất. Tuy nhiên, những con số khoa học đó chẳng ăn khớp gì với nhau.
100% quá trình điều trị đều độc hại.
Tính trung bình, Liệu pháp hóa trị và xạ trị chỉ có hiệu quả 4-5% trong cả một quá trình phục hồi dai dẳng.
Cụm từ ‘điều trị thành công’ được các bác sĩ chuyên khoa ung thư và y văn định nghĩa, tức là không có các khối u (chẳng có tí dính dáng gì đến ung thư) trong vòng 5 năm, và họ tiếp tục đếm con số bệnh nhân ‘sống sót’, dù cho 6 năm sau là những người này có chết đi chăng nữa, những con số này tiếp tục được họ xào nấu thành tỷ lệ chữa bệnh của mình. Đây là một trong những cách mà khoa học điều chế cho ra đúng thuốc khớp với những con số của mình.
“Những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng, những bệnh nhận ung thư không điều trị sống lâu hơn gấp 4 lần những bệnh nhân điều trị. Đối với các loại ung thư điển hình, thì người từ chối điều trị có thể sống giao động trong vòng từ nửa năm đến 12 năm. Còn những ai chấp nhận phẫu thuật, hay các phương pháp trị liệu khác [ hóa trị, xạ trị, cobalt] chỉ có một mức trung bình là 3 năm.” (Tiến sĩ Hardin Jones, bộ môn sinh lý học, đại học California, Berkeley).
Tất cả những phương pháp điều trị hạt nhân và hóa trị được biết là căn nguyên gây ra và di căn ung thư.
Những phương pháp vô lý này được gọi là “biết được mặt trái của hiệu quả”. Động thái sàng lọc để phân loại ung thư cũng cùng một kiểu với phương pháp điều trị, đưa ra càng nhiều trường hợp bệnh nhân nhiễm phóng xạ và các độc chất công nghiệp càng tốt. Đây là lý do mà con số mắc bệnh ung thư vú bùng phát cùng với sư gia tăng những thử nghiệm chụp nhũ ảnh.
Trường hợp tử vong do điều trị (tử vong do bác sĩ điều trị) đứng thứ 3 trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mỹ trích từ thống kê riêng của các tổ chức y tế. Cái chết bởi thầy thuốc bình thường tới nỗi người ta đã gói gọn nó trong một từ ‘iatrogenic’-do thầy thuốc.
Các cô gái phải trải qua hóa và xạ trị phải đối diện với nguy cơ 35% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú vào độ tuổi 40, 75% là điều này sẽ xảy ra cao hơn cái mức trung bình 35% kia. Bức xạ quang tuyến vú cũng sản sinh ra các loại ung thư, đặc biệt là ở vùng ngực.
“Một nghiên cứu với hơn 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ ràng rằng chỉ định hóa trị mạnh cho chứng Hodgkin (u hạch bạch huyết) được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án thực là trò lừa bịp. Những bệnh nhân trải qua hóa trị, có hơn 14% phát triển các bện bạch cầu và hơn 6% phát triển ung thư các cơ xương khớp gấp hiều lần những bệnh nhân không phải trải qua hóa trị liệu - Tiến sĩ-Bác Sĩ y khoa John Diamond
Tiến sĩ Ewan Cameran, đã 2 lần thắng Linus Pauling ở giải Nobel tại Scotland (mà nghiên cứu của Linus sau này đã được nhân rộng trên các nghiên cứu tại Canada và Nhật Bản), bằng nghiên cứu so sánh giữa việc điều trị vitamin C với hóa trị liệu.
Đoán thử xem, nhóm bệnh nhân này sẽ sống dai hơn thời gian trung bình của các bệnh nhân ung thư là bao lâu? Và số bệnh nhân trong nhóm này là bao nhiêu?
Vitamin C giúp kéo dài tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân ung thư lên gấp 6 lần, và đương nhiên cũng làm chất lượng đời sống của họ tốt hơn. Có một sự khác biệt so với thực tế là Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch, thay vì làm suy yếu nó hơn như hóa trị đã làm.
“Là một nhà hóa học được đào tạo để giải thích dữ liệu, thông tin này khiến tôi khó mà chấp nhận rằng các bác sĩ đã bác bỏ bằng chứng rõ ràng rằng càng hóa trị bao nhiêu, càng hại nhiều hơn là lợi.” – TIến sĩ Alan Nixon, cựu chủ tịch của hiệp hội hóa học Hoa Kỳ.
Bệnh nhân ung thư đều có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu bất kỳ lúc nào, điều đó là hiển nhiên vì hóa trị liệu đã phá hủy hoàn toàn hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, và do đó vi khuẩn đã từ đó dễ dàng xâm nhập và giết chết bệnh nhân. Thông thường thì những trường hợp như thế này lại được tính là “tử vong do nhiễm trùng máu” thay vì là tử vong do ung thư. Đó là một phương cách khác để hội đồng y tế thao túng các số liệu thống kê về sự an toàn và hiệu quả của hóa trị và xạ trị liệu pháp.
Các công ty hóa chất đã tạo ra vấn đề, để họ có thể kinh doanh trên chúng ta bằng giải pháp của riêng họ. Các giải pháp phòng tránh mà họ nói chỉ đơn giản là không để lộ ra thứ chất độc mà họ đang kinh doanh.
Tiếng nói của họ vô cùng mạnh mẽ trên các kênh truyền thông đại chúng, cho nên họ mặc nhiên có thể đổ lỗi những bệnh tật đã gây ra cho chúng ta là do mặt trời. Chứng thiếu hụt vitamin D rất là phổ biến hiện nay, chứng minh rằng mọi người đã không nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
Thời gian trung bình đã dự kiến để chữa bệnh thường được kéo dài thêm 4% trên tổng số quá trình (đó là chưa tính trong vòng 5 năm trở lại đây họ đã dung những tinh đồn để gian lận các thông số chữa trị)
Vì vậy, với lượng độc tố trong các “phương pháp điều trị quy chuẩn”, thì có khoảng 96% khả năng là phương pháp điều trị sẽ giết bạn, nhiều hơn là căn bệnh ung thư sẽ giết chết bạn.
Ngay từ khi còn là sinh viên các bác sĩ đã nhận quà của Big Pharma, càng về sau sự nghiệp thì những món quà này càng lớn hơn.
Các bác sĩ chuyên khoa khác chỉ đơn giản là viết toa thuốc, nhưng riêng bác sĩ chuyên khoa ung bứu (trị ung thư) có lợi nhuận cao hầu nhờ mua sỉ các loại thuốc chống ung thư trên thị trường, và bán chúng cho bệnh nhân với giá trên trời. Họ cho bệnh nhân biết rằng những người này sẽ chết nếu không có thuốc.
(NBC Nightly News story- Các bác sĩ khoa ung thư thu lợi nhuận từ các thuốc hóa trị liệu. )
“Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh ung thư ở đất nước này chết vì hóa trị. Liệu pháp hóa trị không trị hết ung thư vú, ung thư đại tràng hay ung thư phổi. Sự thực này đã được ghi nhận trong hơn một thập kỷ qua, nhưng các bác sĩ vẫn áp dụng hóa trị đối với những khối u loại này. Nữ giới bị ung thư vú có nguy cơ chết nhanh hơn là không có hóa trị.” (Bác sĩ y khoa Alan Levin).
“Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (The American Cancer Society) đã cố gắng hủy đi nền tảng nghiên cứu của tôi”. (Tiến sĩ Albert Szent-Gyorgyi, người nghiên cứu những đột phá của vitamin C, người chiến thắng giải Nobel Y học năm 1937 )
Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ – The American Cancer Society
Bạn đoán thử xem tổ chức này được thành lập khi nào và và bởi ai ?
Tổ chức này được thành lập bởi John. D. Rockefeller Jr., trong năm 1931 màu nhiệm, cùng với thời điểm khi ngài “hiến tặng” tài sản cho đại học Havard. Bạn có tin rằng một ngày đẹp trời nào đó, họ sẽ công bố phương pháp chữa lành bệnh ung thư, và vứt bỏ chiếc xe tải chất hàng đống tiền của mình không? Và bạn sẽ hiểu tại sao vitamin C lại đe dọa đến sứ mệnh của họ?
Chúng ta được giáo dục để tin vào “kỳ tích” của hóa dược hiện đại, là vượt trội hơn so với các loại thảo dược truyền thống. Nhưng, cái mà họ không đề cập đến là khoảng từ 50-70% thành phần hóa học của thuốc hiện đại được trích từ các thành phần thảo dược. Chính các hợp chất hữu cơ ấy là lý do tại sao một số loại hóa dược đôi khi lại có hiệu quả!
Theo ghi nhận của ủy ban điều tra dân số Hoa Kỳ, Ung thư là sát thủ đứng thứ 2 ở nước Mỹ, nhưng hầu hết những ca tử vong là do phương pháp điều trị, chứ không phải do bệnh ung thư. Các loại dược phẩm là kẻ giết người đứng thứ 4. Nước Mỹ sở hữu một hệ thống y tế nguy hiểm và đắt tiền nhất thế giới. Hệ thống này tạo ra 60% tất cả các vụ phá sản tại nước Mỹ.
“Không chỉ có một, mà còn rất là nhiều những phương pháp chữa trị cho bệnh ung thư. Nhưng tất cả những phương pháp còn lại đều bị ACS, NCI và các trung tâm ung thư lớn đàn áp. Bởi hiện tại họ đang có quá nhiều lợi nhuận trong chuyện này”. (Tiến sĩ, bác sĩ y khoa, tác giả của “chế độ ăn kiêng Atkins”.)
(Sưu tầm)
Để mở đầu bài viết xin trích dẫn câu nói khá nổi tiếng ” Ngàn lần nói sai thành chân lý”, đa số chúng ta khi sinh ra tới khi chết đi nếu bạn không tinh ý bạn sẽ bị dẫn dắt bởi giáo dục, truyền thông đang hàng ngày “tẩy não” chúng ta một cách hết sức tinh vi và có hệ thống .
Tây Y (Western medecine) đã tiến bộ và phát triển mạnh mẽ trong khoảng 100 năm trở lại đây, Bên cạnh những thành tựu xuất sắc, đặc biệt của các trị liệu bằng phẫu thuật, vi phẫu thuật, đặt implant, thay ghép tạng, sử dụng tế bào mầm v.v…người ta nhận ra là vẫn có một bộ phận của Tây Y trở nên ì ạch không phát triển gì nhiều. Đó là sự tồn đọng của nhiều bệnh (thường gặp) mà nguyên nhân vẫn còn không được biết rõ! Và vì thế, những trị liệu hiện nay chỉ có tính cách trị triệu chứng (symptom relief) hoặc trị liệu tạm thời (palliative care). Ví dụ bệnh suyễn, bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh vảy nến, bệnh vảy cá (ichthyosis) v.v và v.v…nhất là Tây Y chưa giải quyết được một bệnh ác tính đang tăng nhanh trong thời đại này, đó là bệnh ung thư.
Khi nhìn về y học cổ truyền, thì người ta lại nhận ra rằng y học cổ truyền đã thất lạc mất rồi. Dù đã được phục hồi phần nào trong thời gian gần đây nhưng nền y học cổ truyền đã bị thất lạc rất nhiều kiến thức mà nó đã xây dựng qua hàng ngàn thế kỷ! Điều đáng sợ, là không phải nền y học cổ truyền tự nó suy tàn, mà nó đã bị “bức tử” trong đầu thế kỷ 20.
Có thông tin cho rằng chính giới tài phiệt của nước Mỹ, vì cạnh tranh, đã tiêu diệt nền y học cổ truyền với mục đích kiếm lợi!
Dĩ nhiên một người sáng suốt sẽ không quá khích (như những người chủ trương thuyết âm mưu) cho rằng nền Tây Y là không giá trị. Ngược lại, phải thấy rõ cái vĩ đại mà ngành Y bây giờ đã đạt được trong thời gian ngắn khoảng 100 năm trở lại đây. Phải thấy biết ơn những gì mà giới tư bản đã đóng góp cho các trường Y trên thế giới, giúp ngành Y có được những thành tựu như ngày nay.
Nhưng, không vì thế, mà ta không biết một chút về mặt trái của tư bản, của cái gọi là Quỹ Rockefeller.
Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ- FDA
“Vấn đề của các hệ thống y tế là nó được điều hành bởi các nhà tài phiệt để phục vụ cho các mục đích tài chính. Nó chẳng sinh lợi gì trừ khi có người bị bệnh, do đó toàn bộ hệ thống y tế được thiết kế để làm con người càng ngày càng bệnh tật nhiều hơn.”
(Tiến sĩ bác sĩ Guylain Lanctor, tác giả của ‘The Medical Mafia: How to Get Out of It Alive and Take Back Our Health & Wealth’ )
Việc tẩy não quần chúng được ngành Dược được bắt đầu rất sớm.
“Ai nắm giữ quá khứ sẽ kiểm soát tương lai. Ai nắm giữ hiện tại sẽ tóm gọn quá khứ” phải có sự hiểu biết cặn kẽ về Cục Quản lý Thuốc và Thực Phẩm Hoa Kỳ (US FDA), nhất là về những cộng sự và lịch sử tăm tối của Cục - George Orwell’s (in Nineteen eighty four)
Cục quản lý thuốc và thực phẩm (F.D.A) lúc mới bắt đầu thành lập chỉ là một ban quản lý hóa chất (Division of Chemistry), thời gian sau được gọi là Cục quản lý hóa chất (Bureau of Chemistry), mãi về sau mới đổi tên thành F.D.A.. Cái tên đã được thay đổi nhằm che dấu các dự án hóa chất công nghiệp. Cơ quan này cấp cho các công ty tư cách pháp lý để đưa hóa chất vào thực phẩm và giúp các hãng dược phẩm bằng cách chứng nhận “được FDA chấp thuận”. Người dân sẽ không có bằng chứng pháp lý nào để chống lại ngành công nghiệp hóa chất được.
Công việc thực sự của nó đã và đang làm là “thông qua” hoặc “xử phạt” những sản phẩm thuộc ngành công nghiệp hóa chất. và với quyền lực này, nó che dấu một cách hợp pháp cho những hóa chất trong ngành công nghiệp, bằng cách tuyên bố …cái gì mới là “an toàn”.
Nó đều đặn chia sẻ những dữ liệu được bảo mật với các nghiệp đoàn hóa học cộng sự, để làm giảm nhẹ trách nhiệm. Ví dụ, những thông tin ô nhiễm mà họ đã ém nhẹm trước công chúng. Đây là những vấn đề thuộc “quan hệ công chúng”
Mô hình F.D.A hiện đại hơn được tiến hành vào năm 1913—trong cùng một thời điểm thành lập ra quỹ Rockefeller. Tay nắm tay, FDA – Quỹ Rockefeller và Hiệp hội y tế Hoa Kỳ (AMA) cùng nhau hoạt động sát cánh.
Quỹ Rockefeller được thành lập vào năm 1913, với mục đích trọng yếu là nhắm vào lãnh vực y học và đào tạo y khoa. Tài trợ ban đầu của Rockefeller cho trường y đạt trên 550.000.000 dollar. Chỉ trong năm 1928, Quỹ Rockefeller đã tài trợ tiền cho 18 trường Y trên khắp 14 quốc gia. Từ đó, những cộng sự của Rockefeller tại FDA đã bắt đầu thúc đẩy cuộc cạnh tranh khốc liệt với tất cả các loại thuốc nào được coi là “đối lập” với ngành công nghiệp hóa chất.
“Tôi sẽ không đời nào công nhận mọi loại thuốc mới nào, trừ phi loại thuốc ấy đến từ một hãng dược khổng lồ với những nguồn tài chính vô hạn. “ - Tiến sĩ Richard J.Crout, giám đốc của cục quản lý thuốc của FDA (Spotlight, 18 tháng 1, 1982)
Các loại thảo dược bị đàn áp là tất cả thứ mà FDA không thể kiểm soát, và khống chế bằng các tấm bằng sáng chế (patent). Thuốc từ tự nhiên sẽ chẳng bao giờ có thể được cấp bằng sáng chế cả! Đó là lý do tại sao tất cả các liệu pháp thiên nhiên và không gây độc hại hiển nhiên trở thành “thuốc bịp bơm” theo cách gọi của FDA, của ngành công nghiệp hóa chất, và của ngành y! Ngược lại chỉ có những hóa chất trái với tự nhiên (như phi hữu cơ và chất độc ) là có thể được cấp bằng sáng chế, và những loại thuốc không chứa độc tố được xem là một mối đe dọa trong việc kinh doanh thuốc.
“FDA bảo vệ các tập đoàn dược phẩm lớn, sau đó được nhận lại sự khen thưởng. FDA sử dụng quyền lực của chính phủ, họ tấn công những ai gây nguy hại cho các hãng dược lớn. Người dân nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Nhưng không phải thế!. Những gì mà FDA đang làm và những gì mà người dân tưởng như vậy, thực sự hoàn toàn trái ngược như ngày với đêm.” - Tiến sĩ Herbert Ley, cựu thành viên hội đồng của FDA
“Vào năm 1919, việc Rockefeller trao tặng một số trường y ở Canada 5.000.000 dollar đã góp phần tạo nên nền giáo dục y khoa Canada đến tận thế kỷ 20.
Y học thời đó làm gì có cái thị trường sinh ra lợi lộc như bây giờ, thế nên các trường y đã phải nương nhờ vào các khoản viện trợ của Rockefeller (dành cho những trường đào tạo đạt yêu cầu). Ngành Y nhận tài trợ và chấp nhận điều kiện của Rockefeller là phải tuân thủ các quy định:
- Một là, từ bỏ các thể loại y học cổ truyền thống và các dược liệu tự nhiên, thay vào đó là một thế hệ mới các sản phẩm thuốc từ các dẫn xuất hóa học.
- Hai là phải xóa bỏ toàn bộ nền y học của quá khứ. Điều gì đã xảy ra để khơi mào cho nạn đốt sách ở khắp nơi? Trong một vài trường hợp, chính FDA đã thiêu hủy sách. Quả là một thời kỳ gian nan cho các bác sĩ theo truyền thống trị liệu tự nhiên (traditional naturalpathic)
Nhà tài phiệt Rockefeller
Tất cả những ai bất đồng chính kiến, cố nắm giữ quá khứ, có quan điểm tổng quan (holistic), dùng các liệu pháp thiên nhiên để chữa bệnh, từ nay sẽ được xem như bị quỷ ám, một dạng “lang băm” đối với hệ thống đào tạo y khoa chính quy, dù cho đó có là những “lang băm” từng đoạt giải nobel y học, và kết quả thu được sâu rộng đến chừng nào.
…Có các vitamin hay sữa tươi có thể thực sự tiêu diệt các tế bào ung thư. Điều đó có nghĩa là có khi chỉ cần thực dưỡng mà chẳng cần phải có các bác sĩ với những phương pháp chữa bệnh nào nữa. Thực dưỡng như vậy là bất hợp pháp, dù bằng cách này hay cách khác, vì chẳng có một phương pháp thực dưỡng nào được “chấp thuận” cả..
Đã có một mối quan hệ bất chính được hình thành giữa hiệp hội Y học Hoa Kỳ, FDA, và Quỹ Rockefeller. Để đảm bảo sự tuân thủ hợp đồng của các trường Y, quỹ Rockefeller thường xuyên nhấn mạnh các trường Y phải đặt nhân viên của Quỹ Rockefeller vào ban giám đốc điều hành.
Hệ thống pháp lý mới củng cố sự độc quyền của ngành Y, cùng với sự độc quyền ở lĩnh vực công nghiệp hóa dầu của Rockefeller trong quá khứ. Thay vì chỉ sở hữu tất cả các nguồn dầu khí, đế chế Rockefeller hiện nay đã kiểm soát hầu hết tất cả các loại thuốc men tiêu dùng. Nó sở hữu vị chúa sơn lâm, được gọi là “công nghiệp dược phẩm”, mà trước đây là ngành công nghiệp hóa chất. Lại một lần nữa, thuốc men sẽ được kiểm soát và điều chế để chống lại người dân Mỹ. Hệ thống từ đó phân nhánh vươn ra trên toàn thế giới.
Suốt cả cuộc đời, ngài John D. Rockefeller đã từ chối uống loại thuốc thế hệ mới! Trái lại, cả đời ngài lại sử dụng những phương pháp có tính toàn diện của y học truyền thống cho mục đích sức khỏe của chính mình. Nhiều người bạn của ngài tại FDA và AMA cũng cùng một kiểu như thế.
Sau khi Rockefeller cưỡng chiếm các trường Y, thì các bệnh chết người như bại liệt- tim- và ung thư thực sự bùng phát.
Từng có một chuyên gia u não chiễm trệ trong phòng khách của tôi bảo với tôi rằng, anh ta sẽ chẳng bao giờ xạ trị, nếu như chẳng may bị u não đi nữa. Và tôi hỏi anh ta rằng, “thế chẳng phải anh vẫn chuyển người ta đến khu xạ trị sao?” anh ta điềm nhiên trả lời “ phải thế thôi, nếu không tôi sẽ bị tống cổ khỏi bệnh viện” (Tiến sĩ, bác sĩ Ralph Moss.)
Nếu mắc bệnh ung thư thì: 90% bác sĩ ung thư học (oncologist) sẽ không bao giờ chấp nhận chiếu xạ cho ung thư phổi. 84% sẽ không chấp nhận hóa trị cho ung thư đại tràng.
Nghiên cứu của đại học Harvard được công bố tại viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ : “Có sự khác biệt về sự thuận tình chấp nhận các liệu pháp kháng ung thư của các bác sĩ chuyên khoa ung thư khi chính họ bị bệnh”
Xạ trị, hóa trị những điều bạn chưa biết :
Liệu pháp hóa trị và xạ trị được cho là phương pháp điều trị ung thư khoa học nhất. Tuy nhiên, những con số khoa học đó chẳng ăn khớp gì với nhau.
100% quá trình điều trị đều độc hại.
Tính trung bình, Liệu pháp hóa trị và xạ trị chỉ có hiệu quả 4-5% trong cả một quá trình phục hồi dai dẳng.
Cụm từ ‘điều trị thành công’ được các bác sĩ chuyên khoa ung thư và y văn định nghĩa, tức là không có các khối u (chẳng có tí dính dáng gì đến ung thư) trong vòng 5 năm, và họ tiếp tục đếm con số bệnh nhân ‘sống sót’, dù cho 6 năm sau là những người này có chết đi chăng nữa, những con số này tiếp tục được họ xào nấu thành tỷ lệ chữa bệnh của mình. Đây là một trong những cách mà khoa học điều chế cho ra đúng thuốc khớp với những con số của mình.
“Những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng, những bệnh nhận ung thư không điều trị sống lâu hơn gấp 4 lần những bệnh nhân điều trị. Đối với các loại ung thư điển hình, thì người từ chối điều trị có thể sống giao động trong vòng từ nửa năm đến 12 năm. Còn những ai chấp nhận phẫu thuật, hay các phương pháp trị liệu khác [ hóa trị, xạ trị, cobalt] chỉ có một mức trung bình là 3 năm.” (Tiến sĩ Hardin Jones, bộ môn sinh lý học, đại học California, Berkeley).
Tất cả những phương pháp điều trị hạt nhân và hóa trị được biết là căn nguyên gây ra và di căn ung thư.
Những phương pháp vô lý này được gọi là “biết được mặt trái của hiệu quả”. Động thái sàng lọc để phân loại ung thư cũng cùng một kiểu với phương pháp điều trị, đưa ra càng nhiều trường hợp bệnh nhân nhiễm phóng xạ và các độc chất công nghiệp càng tốt. Đây là lý do mà con số mắc bệnh ung thư vú bùng phát cùng với sư gia tăng những thử nghiệm chụp nhũ ảnh.
Trường hợp tử vong do điều trị (tử vong do bác sĩ điều trị) đứng thứ 3 trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mỹ trích từ thống kê riêng của các tổ chức y tế. Cái chết bởi thầy thuốc bình thường tới nỗi người ta đã gói gọn nó trong một từ ‘iatrogenic’-do thầy thuốc.
Các cô gái phải trải qua hóa và xạ trị phải đối diện với nguy cơ 35% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú vào độ tuổi 40, 75% là điều này sẽ xảy ra cao hơn cái mức trung bình 35% kia. Bức xạ quang tuyến vú cũng sản sinh ra các loại ung thư, đặc biệt là ở vùng ngực.
“Một nghiên cứu với hơn 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ ràng rằng chỉ định hóa trị mạnh cho chứng Hodgkin (u hạch bạch huyết) được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án thực là trò lừa bịp. Những bệnh nhân trải qua hóa trị, có hơn 14% phát triển các bện bạch cầu và hơn 6% phát triển ung thư các cơ xương khớp gấp hiều lần những bệnh nhân không phải trải qua hóa trị liệu - Tiến sĩ-Bác Sĩ y khoa John Diamond
Tiến sĩ Ewan Cameran, đã 2 lần thắng Linus Pauling ở giải Nobel tại Scotland (mà nghiên cứu của Linus sau này đã được nhân rộng trên các nghiên cứu tại Canada và Nhật Bản), bằng nghiên cứu so sánh giữa việc điều trị vitamin C với hóa trị liệu.
Đoán thử xem, nhóm bệnh nhân này sẽ sống dai hơn thời gian trung bình của các bệnh nhân ung thư là bao lâu? Và số bệnh nhân trong nhóm này là bao nhiêu?
Vitamin C giúp kéo dài tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân ung thư lên gấp 6 lần, và đương nhiên cũng làm chất lượng đời sống của họ tốt hơn. Có một sự khác biệt so với thực tế là Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch, thay vì làm suy yếu nó hơn như hóa trị đã làm.
“Là một nhà hóa học được đào tạo để giải thích dữ liệu, thông tin này khiến tôi khó mà chấp nhận rằng các bác sĩ đã bác bỏ bằng chứng rõ ràng rằng càng hóa trị bao nhiêu, càng hại nhiều hơn là lợi.” – TIến sĩ Alan Nixon, cựu chủ tịch của hiệp hội hóa học Hoa Kỳ.
Bệnh nhân ung thư đều có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu bất kỳ lúc nào, điều đó là hiển nhiên vì hóa trị liệu đã phá hủy hoàn toàn hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, và do đó vi khuẩn đã từ đó dễ dàng xâm nhập và giết chết bệnh nhân. Thông thường thì những trường hợp như thế này lại được tính là “tử vong do nhiễm trùng máu” thay vì là tử vong do ung thư. Đó là một phương cách khác để hội đồng y tế thao túng các số liệu thống kê về sự an toàn và hiệu quả của hóa trị và xạ trị liệu pháp.
Các công ty hóa chất đã tạo ra vấn đề, để họ có thể kinh doanh trên chúng ta bằng giải pháp của riêng họ. Các giải pháp phòng tránh mà họ nói chỉ đơn giản là không để lộ ra thứ chất độc mà họ đang kinh doanh.
Tiếng nói của họ vô cùng mạnh mẽ trên các kênh truyền thông đại chúng, cho nên họ mặc nhiên có thể đổ lỗi những bệnh tật đã gây ra cho chúng ta là do mặt trời. Chứng thiếu hụt vitamin D rất là phổ biến hiện nay, chứng minh rằng mọi người đã không nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
Thời gian trung bình đã dự kiến để chữa bệnh thường được kéo dài thêm 4% trên tổng số quá trình (đó là chưa tính trong vòng 5 năm trở lại đây họ đã dung những tinh đồn để gian lận các thông số chữa trị)
Vì vậy, với lượng độc tố trong các “phương pháp điều trị quy chuẩn”, thì có khoảng 96% khả năng là phương pháp điều trị sẽ giết bạn, nhiều hơn là căn bệnh ung thư sẽ giết chết bạn.
Ngay từ khi còn là sinh viên các bác sĩ đã nhận quà của Big Pharma, càng về sau sự nghiệp thì những món quà này càng lớn hơn.
Các bác sĩ chuyên khoa khác chỉ đơn giản là viết toa thuốc, nhưng riêng bác sĩ chuyên khoa ung bứu (trị ung thư) có lợi nhuận cao hầu nhờ mua sỉ các loại thuốc chống ung thư trên thị trường, và bán chúng cho bệnh nhân với giá trên trời. Họ cho bệnh nhân biết rằng những người này sẽ chết nếu không có thuốc.
(NBC Nightly News story- Các bác sĩ khoa ung thư thu lợi nhuận từ các thuốc hóa trị liệu. )
“Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh ung thư ở đất nước này chết vì hóa trị. Liệu pháp hóa trị không trị hết ung thư vú, ung thư đại tràng hay ung thư phổi. Sự thực này đã được ghi nhận trong hơn một thập kỷ qua, nhưng các bác sĩ vẫn áp dụng hóa trị đối với những khối u loại này. Nữ giới bị ung thư vú có nguy cơ chết nhanh hơn là không có hóa trị.” (Bác sĩ y khoa Alan Levin).
“Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (The American Cancer Society) đã cố gắng hủy đi nền tảng nghiên cứu của tôi”. (Tiến sĩ Albert Szent-Gyorgyi, người nghiên cứu những đột phá của vitamin C, người chiến thắng giải Nobel Y học năm 1937 )
Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ – The American Cancer Society
Bạn đoán thử xem tổ chức này được thành lập khi nào và và bởi ai ?
Tổ chức này được thành lập bởi John. D. Rockefeller Jr., trong năm 1931 màu nhiệm, cùng với thời điểm khi ngài “hiến tặng” tài sản cho đại học Havard. Bạn có tin rằng một ngày đẹp trời nào đó, họ sẽ công bố phương pháp chữa lành bệnh ung thư, và vứt bỏ chiếc xe tải chất hàng đống tiền của mình không? Và bạn sẽ hiểu tại sao vitamin C lại đe dọa đến sứ mệnh của họ?
Chúng ta được giáo dục để tin vào “kỳ tích” của hóa dược hiện đại, là vượt trội hơn so với các loại thảo dược truyền thống. Nhưng, cái mà họ không đề cập đến là khoảng từ 50-70% thành phần hóa học của thuốc hiện đại được trích từ các thành phần thảo dược. Chính các hợp chất hữu cơ ấy là lý do tại sao một số loại hóa dược đôi khi lại có hiệu quả!
Theo ghi nhận của ủy ban điều tra dân số Hoa Kỳ, Ung thư là sát thủ đứng thứ 2 ở nước Mỹ, nhưng hầu hết những ca tử vong là do phương pháp điều trị, chứ không phải do bệnh ung thư. Các loại dược phẩm là kẻ giết người đứng thứ 4. Nước Mỹ sở hữu một hệ thống y tế nguy hiểm và đắt tiền nhất thế giới. Hệ thống này tạo ra 60% tất cả các vụ phá sản tại nước Mỹ.
“Không chỉ có một, mà còn rất là nhiều những phương pháp chữa trị cho bệnh ung thư. Nhưng tất cả những phương pháp còn lại đều bị ACS, NCI và các trung tâm ung thư lớn đàn áp. Bởi hiện tại họ đang có quá nhiều lợi nhuận trong chuyện này”. (Tiến sĩ, bác sĩ y khoa, tác giả của “chế độ ăn kiêng Atkins”.)
(Sưu tầm)
__._,_.___