Monday, October 28, 2013

Hóa Chất và Dược Phẩm Trung Cộng


 

 

Hóa Chất và Dược Phẩm Trung Cộng

TS.Mai Thanh Truyết

Một phụ nữ ở Bắc Kinh bán các hạt giống thuốc phiện. Hai nhà hàng Trung Quốc ở phía nam đã bị phát hiện có bán thức ăn kèm theo bột hạt thuốc phiện, trong đó có các chất gây nghiện như codeine và morphine. (Ảnh internet)

Trung Cộng (TC) đang trên đà phát triển vượt bực, nhứt là trong những năm gần đây.

Hiện tại, đó là quốc gia có sản lượng kinh tế chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Nhưng TC lại dẫn đầu về thành phẩm sản xuất cho nhu cầu của con người trên thế giới. Hàng hoá TC tràn ngập khắp nơi. Đã vậy, chỉ trong vòng năm năm trở lại đây, kỹ nghệ hóa chất và dược phẩm TC có những bước nhảy vọt, từ đó nảy sinh ra một số lo ngại về phẩm chất (quality), vì quốc gia nầy thể hiện nhiều cung cách “làm ăn” đôi khi vượt qua tiêu chuẩn cho phép của các định chế quốc tế áp dụng cho ngành hoá chất, sinh hóa, dược phẩm mà chỉ lo chú trọng vào lượng (quantity) mà thôi.


VideoTracing the Path of Poisoned

 

Nếu chúng ta đến Thượng Hải cách đây khoảng sáu năm, thành phố nầy chỉ có một số nhỏ phòng thí nghiệm nghiên cứu, trong cơ sở sản xuất dược phẩm của một vài công ty ngoại quốc. Hiện tại, Thượng Hải trở thành một trung tâm nghiên cứu và sản xuất có thể đứng vào hàng đầu trên thế giới. Và còn nữa, tại Bắc Kinh, Tô Châu và một số thành phố lớn cũng không ngừng phát triển công kỹ nghệ nầy. Có thể nói hiện tại, TC đang đi dần đến sản xuất hàng loạt dược phẩm tiêu dùng cho thế giới.



MapTainted Toothpaste Across the Globe

 

Chúng ta cũng thừa biết là qua lịch sử, TC không có tâm lý dùng hóa chất để trị bịnh mà có thói quen chỉ dùng dược thảo để trị liệu. Tuy nhiên, chỉ trong vài năm trở lại đây, rất nhiều công ty nghiên cứu hóa chất và dược phẩm ngoại quốc đầu tư ồ ạt vào xứ nầy, nhất là công ty Hoa Kỳ và Nhật Bản. Điển hình là BioDuro (California) ước tính giảm thiểu chi phí sản xuất dược phẩm được một tỷ Mỹ kim nhờ sản xuất từ TC cho thị trường Hoa Kỳ. Do đó ngành sinh-công nghệ (biotechnology) hiện phát triển rất nhanh ở nơi đây.

 

Bài viết nầy có mục đích mô tả công nghệ dược phẩm và sự phát triển trong việc trị liệu cùng những hệ lụy của sự phát triển quá nhanh của quốc gia nầy.

 

Ngành dược phẩm Trung Cộng



 

Lịch sử ngành dược khoa của Trung Quốc khởi đầu bằng hàng trăm hàng ngàn cây cỏ đủ loại để từ đó pha trộn với cây cỏ khác, hoá chất vô cơ trong thiên nhiên, thậm chí trộn lẫn xác khô của một số động vật để làm dược phẩm. Từ đó khai mở ra ngành y khoa cổ điển.

 

Bây giờ, ngành dược phẩm TC bao gồm những hoạt động như sau:

  • Điều chế và tiêu chuẩn hóa các dược phẩm;
  • Tổng hợp hóa chất hay trồng dược thảo để chế tạo ra dược phẩm;
  • Phân tích các dược liệu áp dụng trong việc chữa trị;
  • Phụ trách việc phân phối.

 

Do đó, dược khoa TC chia ra hai hướng chính, y khoa cổ truyền chuyên dùng dược thảo và y khoa hiện đại. Bịnh viện TC cũng cung cấp hai phương cách trị liệu trên.

 

Trên toàn quốc, hiện có khoảng 50 Đại học Dược khoa trong đó mỗi ngành y khoa cổ truyền và hiện đại chiếm vị trí ngang ngữa với nhau. Thời gian học là bốn năm với khả năng có thêm vài năm chuyên môn về Hóa học. Đa số sinh viên tốt nghiệp làm trong các dược phòng, hay lớn hơn nữa trong các bịnh viện dược khoa. Kể từ khi có cải cách kinh tế vào thập niên 1980 ở TC, ngành Dược TC phát triển không ngừng và chuyển qua sự xâm nhập của ngành Dược hiện đại cùng nhiều phương cách trị liệu hữu hiệu hơn cho một số bịnh.

 

Từ đó, người dược sĩ lần lần có khuynh hướng về nghiên cứu dược phẩm nhiều hơn thay vì làm những việc hàng ngày trong việc pha chế cho đúng cân lượng theo toa bác sĩ. Trong nghiên cứu, sự tổng hợp và tinh chế hóa (purification), cô lập hóa (isolation) các hoá chất hữu cơ dùng trong sản xuất dược phẩm được chú trọng nhiều hơn. Sau đó, đi sâu hơn nữa trong việc ổn định (stabilization) hóa chất, phương pháp thử nghiệm, và sau cùng tiêu chuẩn hóa hóa chất (standardization).

 

Một ngành nghiên cứu mới nữa là tính chấp nhận (tạm dịch từ danh từ “availability”) của cơ thể với nhiều dạng khác nhau của dược liệu; đề từ đó quyết định cân lượng của dược liệu áp dụng cho cơ thể. Song song, ngành tổng hợp protein và sản xuất vitamin hiện nay của TC cũng là một thách thức lớn cho thế giới.

 

Ở TC, từ năm 1997, Hội Dược khoa TC (Chinese Pharmaceutical Association- CPA) là hiệp hội lớn nhất cho ngành nầy quy tụ trên 3.000 cá nhân và nhóm nghiên cứu. Qua các nhóm nghiên cứu có thể kể thêm trên 105.000 thành viên. TC cũng có nhiều đại công ty phân phối dược phẩm trên toàn quốc, như công ty Sanjiu Enterprise Group có đến gần 10.000 địa điểm, với doanh số 157 triệu Mỹ kim; công ty China Nepstar với 5.000 địa điểm đạt doanh số 124 triệu, đại công ty Weisheng với doanh số hàng tỷ Mỹ kim….

 

Mức tăng trưởng hàng năm cho ngành nầy vào khoảng 16,7% trong vòng năm năm trở lại đây. Chính nhờ việc gia nhập vào WTO từ năm 2001, TC mới chính thức mở cửa cho nhà đầu tư ngoại quốc và thu hút thêm nhiều khoa học gia, nghiên cứu gia tiếp cận thị trường dược phẩm, trong đó có thể nói có mức tiêu thụ lớn nhất thế giới.

 

Về phía chính quyền, Cơ quan Quốc gia về Thực phẩm và Dược phẩm (NFDA) quản trị và kiểm soát hoàn toàn ngành dược của TC. Trước năm 1999, chính phủ TC ngăn cấm tư nhân sản xuất dược phẩm hay ký hợp đồng với công ty ngoại quốc. Đến tháng 10, 1999, NFDA mới điều chỉnh luật trên và thiết lập bộ luật về dược phẩm vào năm 2001, ngay sau khi gia nhập WTO. Từ đó ngành nầy mới phát triển với tốc độ phi mã. Tính đến nay, TC đầu tư gần 25 tỷ Mỹ kim cho việc xây dựng và nâng cấp các cơ sở nghiên cứu và sản xuất. Mức thu nhập ròng trong năm 1999 cho kỹ nghệ nầy là 24 tỷ Mỹ kim, và năm 2004 là 56 tỷ, và năm 2010 là gần 100 tỷ, và năm 2012 đạt trên 120 tỷ Mỹ kim.

 

Một loại dược phẩm khác, nói đúng hơn là các loại Vitamin thường dùng, hiện đang là đề tài lớn cho TC. Mỗi lần chúng ta ngậm một viên Vitamin C chẳng hạn, hầu như nơi sản xuất hóa chất nầy chính là TC. Chưa đầy một thập niên, TC cung cấp 90% thị trường Vitamin C ở Hoa Kỳ.

 

Kỹ nghệ Vitamin của TC gồm hơn 5.000 công ty sản xuất với 2 triệu dịch vụ thương mại đạt 2,5 tỷ Mỹ kim thương vụ trên thế giới năm 2006, và tăng lên 5 tỷ năm 2010. Dĩ nhiên, với một mức phát triển và sản xuất như trên, tệ nạn kém phẩm chất, chai lọ không xuất xứ, thiếu bảng phân tích hoá chất và cung cách sử dụng xảy ra nhiều hơn.

 

Một sản phẩm không kém quan trọng nữa ở TC là thuốc làm giảm cân đã được quảng cáo và bày bán khắp thế giới. Người tiêu thụ không thể nào phân biệt được thuốc thật hay thuốc giả cùng sản xuất từ TC và đã có nhiều vụ kiện tập thể (class action) về các loại thuốc nầy ở Hoa Kỳ. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhập cảng thuốc trụ sinh hoặc kháng sinh, diếu tố (enzymes), và nhiều loại amino acid dưới dạng nguyên thủy (primary).

 

Kiểm phẩm hóa chất và dược phẩm Trung Cộng

Tập tin:Baozi 02.JPG

 

Trong vòng năm năm trở lại, TC đã làm quốc tế e ngại về tính an toàn của sản phẩm xuất xứ từ Hoa lục.

 

Qua quá nhiều “sự cố” về mức an toàn của thực phẩm và dược phẩm TC, xảy ra thường xuyên hơn: vụ thức ăn gia súc TC bị nhiễm độc vào 4/2007, rồi kem đánh răng có chứa dimethylglycol  và gần đây nhất thức ăn “há cảo” (2008) TC sản xuất qua Nhật Bản chứa nhiều dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật, thuốc bổ dành cho nam giới dùng thai nhi làm nguyên liệu đã bị khám phá ở Đại Hàn vào tháng 9 năm 2011 càng khiến thế giới gay gắt nêu vấn đề an toàn sản phẩm của TC.

 

Dù hiện tại chính quyền TC đang đặt trọng tâm nhiều hơn về việc kiểm soát an toàn sản phẩm để có thể đạt tiêu chuẩn quốc tế, trên thực tế, vấn đề càng trở nên phức tạp hơn qua nhiều yếu tố:

 

  • Ý thức về an toàn phẩm chất và an toàn vệ sinh chưa được đánh giá đúng mức cả về phía người sản xuất lẫn tiêu thụ;
  • Tâm lý chạy theo lợi nhuận, quên đi các yếu tố an toàn vệ sinh và tiêu chuẩn cần có của sản phẩm của những nhà sản xuất; và
  • Quan trọng hơn cả là não trạng của nhà cầm quyền hầu như “nhắm mắt” để cho những tệ trạng trên xảy ra.

 

Có thể nói, cứu cánh duy nhất của nhà cầm quyền TC hiện nay là tạo ra của cải vật chất dưới bất cứ giá nào, và nạn nhân nếu có, dù là người dân trong nước hay người nước ngoài, cũng không làm thay đổi não trạng. Đây mới chính thực là nỗi lo chung của nhân loại ngày hôm nay.

 

Chúng ta còn nhớ cách đây năm năm, TC đã xử tử hình Giám đốc Cơ quan Quốc gia Thực phẩm và Dược phẩm qua vụ hối lộ 832.000 Mỹ kim của các nhà sản xuất để xuất cảng một số hoá chất và dược phẩm không an toàn ra thị trường ngoại quốc. Việc nầy có mục đích duy nhất là xoa dịu sự phản đối của thế giới hơn là giải quyết một cách rốt ráo các tệ trạng trong sản xuất của TC, vì các “xì căn đan” vẫn tiếp tục diễn ra với nhịp độ cao hơn và tinh vi hơn.

 

Kỹ nghệ thực phẩm và dược phẩm của TC dưới mắt của những nhà quan sát quốc tế như Peter Kovacs, Cố vấn thực phẩm ở Nevada đã được phân chia ra 3 thành phần:

  • Thành phần có sự tham dự và cố vấn cùng đầu tư ngoại quốc thì đạt được tiêu chuẩn quốc tế là Good Laboratory Practice (GLP);
  • Còn lại thành phần sản xuất thứ hai và thứ ba hoặc không dựa theo tiêu chuẩn nào cả, hoặc do móc ngoặc với chính quyền hay thanh tra để tung ra thị trường sản phẩm chẳng những không đạt tiêu chuẩn mà còn có nguy cơ ảnh hưởng lên sức khoẻ của người tiêu dùng nữa.

 

Các hóa chất và thuốc sản xuất tại Trung Cộng

Mục sở thị cơ sở sản xuất thuốc giả tại Trung Quốc

Nói về hóa chất và dược phẩm sản xuất tại TC, nếu trên thế giới có sự hiện hữu của bất cứ món hàng nào, chắc chắn món hàng đó sẽ hay đã được sản xuất tại TC và sản xuất với một số lượng lớn. Dĩ nhiên về phẩm chất, chúng ta cần phải xét lại. Hàng nhái, hang dỏm không thiếu. Thuốc giả thuốc thiệt sản xuất “à la Chinoise” tràn ngập khắp nơi…

 

Dưới đây xin liệt kê một số hóa chất hay thuốc tây TC đã sản xuất với số lượng dùng cho nhu cầu toàn cầu, để từ đó chúng ta nhận định được cung cách làm ăn của TC.

 

  1. Hóa chất bảo quản thực phẩm: Một hóa chất bảo quản thực phẩm được FDA Hoa Kỳ và thế giới chấp thuận là Sodium benzoate (C6H5COONa). Hóa chất nầy được điều chế từ acid benzoic (C6H5COOH) và sút (NaOH) cùng một số phụ gia trong quy trình sản xuất là phenol (C6H5OH), các oxid Sắt (Fe) và Đồng (Cu). Sodium benzoate được dùng trong kỹ nghệ thực phẩm (food), mỹ phẩm (cosmetic) và y khoa với nhiệm vụ diệt trừ nấm mốc (gungistatic) và trừ vi khuẩn (bacteriostatic). TC hiện đang sản xuất trên 50% nhu cầu của thế giới dưới nhiều dạng như: dạng bột, dạng hạt, dạng tinh thể, dạng kỹ thuật, và dạng tinh thiết dùng trong dược phẩm. Sản lượng tổng cộng là 85 ngàn tấn /năm. Hàng trăm nhà máy thuộc Cty Tianjin Dongda Chemical Co. tập trung trên một diện tích 10 mẫu tây (1 mẫu = 10.000 m2). Hiện TC đang xây cất thêm ở Nangang một chuổi nhà máy với năng suất 150.000 tấn/năm, dự trù sản xuất vào năm 2015.

Với mức độ sản xuất quy mô như kể trên, và với hệ thống kiểm phẩm và an toàn vệ sinh còn lỏng lẻo, thử hỏi các tạp chất (by-product) còn sót lại trong thành phẩm sẽ là một nguy cơ không nhỏ, nhứt là trong lãnh vực kỹ nghệ bảo quản thực phẩm.


 

2.            Acid Ascorbic hay Vitamin C (C6H8O6): Hóa chất nầy được điều chế từ đường glucose qua 6 giai đoạn trong đó có giai đoạn lên men dùng vi khuẩn Erwinia. Và giai đoạn tinh chế bằng phương pháp trao đổi ion (ion-exchange) và kết tinh trong điều kiện gần chân không. Do đó, hai giai đoạn sau cùng có chi phí rất cao so với giai đoạn điều chế Vit. C. Và hầu như TC không đặt trọng tâm vào 2 giai đoạn sau, cũng như kiểm soát an toàn và kiểm soát phẩm chất (QA/QC). Nhờ vậy thành phẩm có giá rẻ hơn giá thị trường và dĩ nhiên vì vậy, tai nạn do phản ứng của các tạp chất thường xảy ra. TC sản xuất 80% nhu cầu thế giới với 100.000 tấn năm 2010. Hoa Kỳ nhập 90% nhu cầu Vit C từ TC.


 

3.            Aspirin (C9H8O4): Đây là hóa chất dùng để chữa trị cùng đề phòng trụy tim (heart attack), máu đông (blood clots), chống đau nhức trong các chứng tê thấp, sưng khớp xương,v.v… qua sự tổng hợp Acid salicylic (C6H4COOHOH), Acetic anhydride ((CH3CO)2O) và Acid phosphoric. Năm 2010 thế giới sản xuất 45.000 tấn, trong đó TC chiếm gần 30 ngàn tấn.


 

4.            Các loại Vitamin B: Đây cũng là một nhóm Vitamin cần thiết cho cơ thể con người, được sản xuất từ đường glucose. Quá trình sản xuất phải loại bỏ các phần tử dự phần trong phản ứng như Sắt, Kẽm, Cobalt. Đây là những nguyên tố nằm dưới dạng phosphate, sulfate cần thiết cho sự lên men do vi khuẩn Streptomyces olivaceous. Giai đoạn nầy cũng cần chi phi rất cao và phải lập đi lập lại nhiều lần. Và, cũng giống như bao quy trình sản xuất khác, vì TC muốn cho giá thành rẻ để cạnh tranh với thế giới, nên tạp chất vẫn còn đầy rẩy trong các loại Vit B sản xuất ra. Kỹ nghệ Vitamin mang lại cho TC 2,5 tỷ US$ với trên 5.000 nhà sản xuất năm 2006 và tăng vọt lên gần 4 tỷ năm 2010 với 7 ngàn nhà máy.




 

5.            Ngoài các hóa chất và dược phẩm kể trên, TC còn sản xuất và chiếm trọn thị trường thế giới như các loại trụ sinh (antibiotic), các diếu tố (enzyme), và nhứt là các amino acid căn bản để làm tổng hợp dược phẩm. Trên thị trường thế giới, TC sản xuất 70% thuốc trụ sinh penicillin, 35% acetaminophen dưới dạng Tylenol và các Vit A, B12, C và E. Hầu hết các dược phẩm trên đều được sản xuất tại tập đoán dược phẩm Weiseng.


  1. Ngoài ra còn biết bao loại hàng giả hàng nhái tập trung vào hai thành phố phía Nam Hong Kong và phía Nam Shanghai rồi chuyển vận đi khắp nơi qua nhiều “con đường tơ lụa” phát xuất từ TC sang Âu Châu. Những con đường tơ lụa tân thời chuyển vận băng mọi phương tiện thủy bộ hàng không. Dĩ nhiên là phát xuất từ TC:  


 

- Con đường tơ lụa nguyên thủy từ lục địa TC qua Nội Mông, Tân Cương (East Turquistan), Pakistan, Afghanistan, các quốc gia Đông Âu, rồi Tây Âu,

- Con đường thứ hai đi thẳng qua Liên bang Nga rồi đổ hàng vào Tây Âu.

- Con đường thứ ba qua Miến Điện (Myanmar) rồi xuống Đông Nam Á, xuyên qua Ấn Độ dương để qua Nam Phi châu. Từ đó, ngược miền Bắc lên Tây Phi châu để rồi xuyên Đại Tây dương lên các quốc gia Caribbe. Sau cùng diểm đến vẫn là Hoa Kỳ và Canada,

- Và một con đường mới mở sau nầy, là đường chuyển vận từ Liên bang Nga qua nước Trung Mỹ và tiến vào Hoa Kỳ.

 

Tổng kết lại, Hoa Kỳ chính là quốc gia tiêu thụ nhiều hơn tất cả những mặt hàng nhái, hàng dỡm, các loại thuốc men, hay hóa chất dùng trong kỹ nghệ.

Các số liệu sau đây cho thấy mức xâm nhập và tỷ lệ các mặt hàng từ TC đến Hoa Kỳ trong năm 2010: - Thuốc lá 21%, - Sản phẩm điện 19%, - Sản phẩm điện tử 18%, - Dược phẩm 13%, - Đồ dùng thể thao 8%, - Mắt kiếng 7%, - Và linh tinh 14%.

Vì mức trầm trọng của vấn đề, hầu hết trong mọi trao đổi, hay hội họp, Hoa Kỳ luôn khuyến cáo TC đặt trọng tâm vào an toàn vệ sinh và phẩm chất… nhưng, tất cả đối với TC  đều như “nước đổ đầu vịt” hay “nước đổ lá môn” mà thôi.

 

Có thể nói, kỹ nghệ hóa chất và dược phẩm TC được chia ra làm hai nhóm chính:

  • - Nhóm thứ nhứt gồm các nhà máy, chuyên viên thượng thăng, với quy trình sản xuất đúng tiêu chuẩn của thế giới;
  • - Và nhóm nhà sản xuất thứ hai, thậm chí nhóm thứ ba, chiếm đa số do các nhà sản xuất và đầu tư người Trung Hoa, chính là nguyên nhân và là thủ phạm của tất cả mọi sai trái trong kỹ nghệ nầy.

 

Rất tiếc, hai lổ hỏng trong luật lệ Hoa Kỳ là không cần niêm yết các nguyên liệu có xuất xứ từ nguyên gốc trong sản xuất trên các nhãn ghi thành phần hóa chất; cũng như mọi thành phẩm dùng 50% nguyên liệu từ Hoa Kỳ có thể để nhân hiệu là “Made in USA”…do đó gian thương có thể đánh lận con đen với người tiêu thụ tại quốc gia nầy.

 

Đặc biệt, trong một phát biểu gần đây, Trưởng Văn phòng Đại diện của Tổ chức Y tế Thế giới WHO tại TC, Ts Henk Bekedam, cho rằng:”Các dược phẩm của TC dùng trong việc chữa trị bịnh bất lực, làm giảm cân, cùng tất cả dược phẩm giả bày bán trong các cửa tiệm là MỘT TỘI ÁC.

 

Thái độ của người tiêu dùng

Mục sở thị cơ sở sản xuất thuốc giả tại Trung Quốc

Như đã nói ở phần trên, chúng ta, người tiêu thụ sản phẩm TC hiện tại, từ đồ chơi cho trẻ em, đến hầu hết vật gia dụng trong nhà bếp hay dụng cụ trang trí, từ thức ăn tươi, khô, đến những món “cao cấp” như yến, sâm nhung chẳng hạn, từ viên thuốc cảm cúm cho đến các loại thuốc trị liệu nhiều bịnh rất phức tạp... tất cả những sản phẩm trên có thể gây nguy cơ bất ngờ và bất cứ lúc nào cho chúng ta. Mọi đề phòng hầu như bất lực, ngoại trừ hoàn toàn tẩy chay sản phẩm có mang nhãn hiệu “Made in China” “Made in RPC”, nhưng điều đó không thể xảy ra được.


 

Nhưng cũng không hẳn chúng ta hoàn toàn “miễn nhiễm” hội chứng TC đâu, vì còn biết bao nhiêu hàng nhái, hàng giả không nhãn hiệu hay có nhãn hiệu dưới một thương hiệu khả kính như Colgate (trong vụ kem đánh răng giả), Cà phê Starbuck, M&M, Nestle, Coffee-mate, Pizza Hut, Maxwell House,v v…  tất cả đều có xuất xứ từ TC!

 

Thế giới đã biết và biết rất rõ não trạng cùng cung cách làm ăn của TC. Thế mà vẫn cho quốc gia nầy gia nhập vào WTO từ năm 2001 mặc dù TC không hội đủ tiêu chuẩn về nhân quyền, hệ thống kinh tế còn khép kín dưới hình thức quốc doanh, chưa có sự trong sáng trong nhiều quyền căn bản của người dân theo tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc. Điều sau cùng dưới đây đã chắp cánh cho TC có thể ngang nhiên vi phạm những điều đã hứa và phê chuẩn khi gia nhập. Chẳng những thế, họ còn ngang nhiên an nhiên tự tại hơn nữa nhờ chiếc ghế đặc quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Một vài quyết định gay gắt trong quá khứ của các quốc gia trên thế giới nói lên mối quan tâm trước vấn nạn hàng già, hàng nhái của TC:

 

  • Trong một phát biểu ngày 21/2/2008, Bà Đường Vân Hoa thuộc Văn phòng An toàn Thực phẩm Bắc kinh nói rằng: “TC tuyên bố với cộng đồng quốc tế rằng thức ăn tại Olympic Bắc Kinh sẽ an toàn và các đội tuyển không cần phải tự đưa thức ăn tới TC”. Tuy công bố như trên, nhưng Uỷ ban Thế vận Hoa Kỳ cũng sẽ cho chở sang TC 15.000 Kg thịt bò, gà, heo cho vận động viên của mình. Hiện tại công cuộc vận động và quảng bá Thế vận hội vào tháng 8 sắp tới đây của TC đang diễn ra quyết liệt để gây thêm uy tín của nước nầy trước thế giới. Nhưng ngày 14/2/2008, nhà đạo diễn đã từng đoạt giải Oscar Steven Spielberg tuyên bố từ chức vụ Cố vấn quảng cáo cho Thế vận Bắc Kinh.
  • Nga tố cáo xe Geely của TC không an toàn ngày 3/2/2008
  • Liên Hiệp Âu châu đang dự định khởi tố TC lên WTO năm 2009;
  • Hoa Kỳ bắt giữ 4 gián điệp dược phẩm TC năm 2009;
  • Nhật Bản phát hiện thuốc bảo vệ thực vật trong "hắc cảo" TQ;
  • Nhật Bản lại phát hiện thuốc trừ sâu trong cá thu đông lạnh chế biến tại TC.
  • Năm 2012, phi lê cá rô phi (tilapia) hàng năm nhập vào Hoa kỳ với số lượng 35.000 tấn đang bị FDA kiểm soát chặt chẽ và đã trả về hang loạt trong những thang gần đây.

 

Những sự kiện điển hình trên có thể cho chúng ta liên tưởng đến thái độ và phản ảnh cung cách ứng xử của thế giới trước những vi phạm về an toàn hóa chất và dược phẩm cùng hàng nhái, hàng giả của TC trong thời gian gần đây chăng?

 

Riêng tại Hoa Kỳ, truyền thông và dư luận bắt đầu nhập cuộc ngay sau khi khám phá kim loại độc hại như Chì (lead) và Thủy ngân (Mercury) trong đồ chơi trẻ em và thức ăn cho chó mèo bị nhiễm độc năm 2007. Báo chí khắp nơi khuyến cáo người tiêu thụ tẩy chay hàng hóa TC. Gần đây nhứt,  một Xướng ngôn viên nổi tiếng của hệ thống truyền hình quốc gia ABC, Bà Diane Sawyer đã tung ra chiến dịch:

 

Boycott K9 Killers!

Boycott K9 Commie Red

Support MADE IN USA

 

Chiến dịch bắt đầu từ ngày 1/6/ đến 30/6/2011, và tiếp tục tháng 8 và tháng 9 năm 2013 trong đó kêu gọi người tiêu thụ tại Hoa Kỳ hãy vất bỏ tất cả hàng hóa sản xuất tại TC trong nhà với lập luận: “Nếu mỗi người Mỹ chỉ cần tiêu xài thêm $64 hàng hóa sản xuất tại đất nước nầy trong năm nay (2006), chắc chắn sẽ có thêm 200.000 công việc ngay tức khắc!”.

 

Hoặc: “Nếu 200 triệu người Mỹ từ chối mua $20 hàng hóa TC, chắc chắn sẽ có hàng tỷ Mỹ kim thuận lợi về phía Hoa Kỳ trong cán cân thương mại Mỹ - Trung.”

 

Từ đó, sẽ làm thiệt hại 8% hàng xuất cảng của TC sang Mỹ; và điều nầy sẽ làm cho TC xét lại tính ngạo mạn (arrogance) và cung cách làm ăn bất chấp luật lệ của mình!

 

Đặc biệt, gần đây nhứt, trước sự phản kháng của hầu hết các quốv gia trên thế giới, TC “bắt đầu” chiến dịch truy lùng và bắt những nhà sản xuất và gian thương buôn bán hàng giả và hàng nhái với quy mô toàn cầu…mặc dù họ trước đây đã làm ngơ hay âm thầm cổ súy cho việc làm ăn dối trá nầy.

 

Vào ngày 4/10/2011, TC đã cho bố ráp 117 nhà bào chế thuốc tây tại vùng tỉnh Hồ Nam và bắt 114 dược sĩ cùng trị giá thuốc bị tịch thu lên đến 65 triệu Mỹ kim. Ngay sau đó, TS Fake Corrigan, chuyên viên và là Đại diện của FDA Mỹ vội bay qua TC và khuyến cáo quốc gia nầy cần chấm dứt việc sản xuất thuốc giả, thuốc lậu cùng chuyển tải ra tiêu thụ cùng khắp các quốc gia trên thế giới.

 

Chỉ vài ngày sau đó, ngày 18/11, một cuộc hành quân khác phối hợp với quân đội và cảnh sát gồm trên 18 ngàn người ở 29 tỉnh khác, bắt 1.770 người, tịch thu trên 315 triệu Mỹ kim, giá trị của hơn 100 nhản hiệu thuốc già khác nhau. Và từ đó cho đến nay (2013), hàng loạt nhiều tệ trạng tương tự vẫn tiếp tục xảy ra, nói lên tính cách bất lực của Cơ quan Quốc gia Thực phẩm và Dược phẩm TC.

 

Những tin tức vừa kể trên cho thấy, mặc dù thế giới phản kháng mạnh mẽ, nhưng TC vẫn chỉ làm xoa dịu phản ứng thế giới ngõ hầu giữ được “khách hàng” qua những hợp đồng chính thức cũng như những “con đường tơ lụa” nói ở phần trên.

 

Kinh nghiệm cho Việt Nam

Ấn Độ đang dẫn đầu về thuốc ngoại trúng thầu tại bệnh viện nhưng trong số 137 đầu thuốc vi phạm chất lượng thì có 56 đầu thuốc của nước này

Hẳn chúng ta còn nhớ, Việt Nam cũng trải qua quá nhiều kinh nghiệm trong quá khứ về hóa chất và dược phẩm TC. Xin nhắc lại một vài sự kiện “thương đau”:


 

  • Năm 2005, TS Nguyễn Quốc Tuấn đã phân tích và khám phá các loại hóa chất dưới dạng bột bảo quản và tăng trưởng được bày bán tự do ở Hà Nội, sau đó, hoá chất trên tràn ngập Sài Gòn. Đó là hóa chất 2,4,5-T, thành phần chính trong chất Da Cam có chứa Dioxin. Khám phá nầy làm cho TS Tuấn mất chức Trưởng Phòng Phân tích Môi trường và không biết đã bị thuyên chuyển đi nơi khác hay mất tích?
  • Phẩm màu Sudan, TC gây hậu quả không nhỏ qua các vụ nhiễm độc tập thể ở Việt Nam năm 2005; rồi gần đây, 2010, phẩm đỏ kỹ nghệ Rhodamine B dùng để là tương ớt, bột nêm, bún bò, làm cho múi mít và sầu riêng đậm màu, dễ bắt mắt người tiêu thụ. Hiện tại, các sản phẩm kể trên vẫn được thấy bày bán trên thị trường Hoa Kỳ;  
  • Thức ăn có trộn hóa chất làm tăng cân và béo phì ở một số trường mẫu giáo cũng đã làm náo loạn dư luận một thời năm 2006;
  • Và những vụ trúng độc trong các quán ăn tập thể hay trong căn tin hầu như xảy ra hàng ngày ở khắp nơi do thức ăn bị nhiễm độc, do rau đậu được trồng bằng những loại hoá chất “không tên” bày bán khắp nơi, rất hữu hiệu, bảo đảm tăng một vài cm trong một đêm! (có tính cách thông tin, chúng tôi đã thấy “cọng giá” ở San Jose, Sacramento, và Houston… trắng hơn và dài hơn cũng như dòn hơn, không hư thúi (chảy nước và nhớt nếu để lâu ngoài không khí vài ngày…Điều nầy chứng tỏ rắng các hóa chất tăng trưởng hay kích thích tố đã xuất hiện ở Hoa Kỳ).
  • Về dược phẩm, qua kinh nghiệm bịnh SARS được phát hiện đầu tiên ở Thượng Hải, TC, đã bị giấu mãi đến khi có người chết ở đây và lây lan sang Việt Nam, TC mới chịu cho nhân viên LHQuốc vào điều tra;
  • Biết bao hóa chất bảo quản thực vật, động vật không tên sản xuất từ TC được bày bán ngang nhiên từ bao năm nay đã được báo chí trong nước kêu gào nhưng Việt Nam không có một phản ứng nào để ngăn chặn. Nếu có chỉ làm cho có lệ mà thôi. Hầu hết các hoá chất trên là đã bị cấm dùng trong thực phẩm hay sử dụng với một vi lượng cực nhỏ và phải có độ tinh khiết là 99,9999%. Điều nầy TC đã không làm.
  • Rốt ráo hơn nữa, qua nhiều bịnh lạ xảy ra cho trẻ em, hoặc học sinh cấp I ở nhiều nơi từ Bắc chí Nam, ở những vùng nông thôn xa các khu công nghiệp hóa chất đã được một số quan sát viên, bác sĩ và bình luận gia đặt nghi vấn, vì chưa từng xảy ra trong lịch sử y khoa. Nghi vấn đó còn có thể là một loại vũ khí sinh học phát xuất từ TC để thử nghiệm vũ khí giết người hàng loạt?

 

Từ những sự kiện kể trên, chúng ta có thể nhận định và đề cao cảnh giác rằng Trung Cộng không những là mối nguy về chính trị, về việc xâm chiếm lãnh thổ, về kinh tế... mà mối nguy nguy hiểm nhất là mối nguy làm cho người Việt không còn khả năng đề kháng trước đàn anh nước lớn, cũng như trí tuệ của thanh thiếu niên trong tương lai sẽ bị hũy diệt không còn đủ thông minh để phát triển và khai mở Đất và Nước Việt Nam nữa.

 

Điều cảnh báo trên thiết nghĩ sẽ làm động não những người đang cai quản đất nước hiện tại nếu họ còn một chút nhứt điểm lương tâm.

 

Hy vọng những nhận định về sẽ không xảy đến cho tuổi trẻ Việt Nam trong tương lai.

 

TS.Mai Thanh Truyết

Hiệu đính 10/2013

 

 

 

Canada có thật sự là “thiên đường y tế”?


From: nguyentruc_
Date: Sun, 27 Oct 2013 17:10:45 -0700
Subject: [Canada có thật sự là “thiên đường y tế”??

 

 

 

Canada có tht s là “thiên đường y tế”?

T năm 2010 cho đến nay, c nước M đã n ào quá nhiu xung quanh vn đ bênh hay chng Lut Ci T Y Tế. Cuc kho sát ca ABC News / Washington Post cho hay 36% công dân có ý kiến thun li vi lut ci t y tế b kin lên Ti Cao Pháp Vin (TCPV) - nhưng, h thng chăm sóc sc khe hin hành cũng ch được 39% chp nhn. Tuy đa s không thy hài lòng nhưng có đến 75% đánh giá phm cht chăm sóc sc khe hin ti ca h là “tt” - nên, điu khó là làm sao thc hin các gii pháp mà không khiến cho người dân cm thy s mt loi dch v mà h xét là tích cc.

Ng
ười cao tui nhng nước xã hi ch nghĩa như Canada và Châu Âu thường hưởng li nhiu hơn người tr trong mc đ chăm sóc y tế. (Obamacare cũng tương t như vy - bt người tr đóng tin bo him y tế nhưng người tr ít dùng, bù li cho người cao niên s dng dch v nhiu).

ABC News và Washington Post nhn thy 38% kch lit chng lut ci t (gi tt ACA), 52% không tán đng (?!?) và 12% không ý kiến. Trong gii đánh giá thp h thng y tế hin hành, ch 35% chp nhn ACA - vi nhng người không bng lòng h thng hin hành, cũng ch có 32% ng h ACA. Vào tháng 4-2012 ch 38% nghĩ rng TCPV nên loi b hoàn toàn ACA, 25% mun gi li tt c và 29% tin rng nên gi li mt phn.

Và ri hôm Th Năm, 28-6-2012, Chánh Thm TCPV (Chief Justice hay Justitiarius) John Roberts, đi din pháp đình đã đc bn phán quyết: Đo Lut Bo V Bnh Nhân Và Chăm Sóc Y Tế Va Tm Kh Năng Tài Chánh (ACA) không đi ngược li hiến pháp. Đo lut ci t y tế - vi bit danh là “Obamacare” - được xem là mt trong nhng thng li chính tr ln lao nht ca ông Obama. Mc dù phi ch cho ti ngày 1-1-2014 thì ACA mi bt đu có hiu lc, nghĩa v cá nhân phi mua bo him y tế s đòi hi bt c người nào Hoa Kỳ đ kh năng tài chánh tr cho các dch v săn sóc y tế, ngay c khon bo him ti thiu thp nht, đu phi có bo him, bng cách mua theo cá nhân hoc thông qua người ch tuyn dng ca mình. Nếu không có bo him y tế, h s b pht, bng bin pháp là tin ca h b rút ra t nhng ngân khon hoàn thuế


Tuy nhiên n
ếu hi k mt công dân M, nht là nhng người di dân, t nn gc Vit, thì dường như có rt nhiu người còn khá mù m v khái nim ci t y tế. Đc bit các ông bà cao tui thường hay bình phm: “Y tế M không bng Canada”, ri có người kết lun: “Obama đang bt chước Canada”. S tht như thế nào?

Chăm sóc sc khe ti Canada

Tht ra thì t lâu người dân M đã nghe nhiu v chế đ bo him y tế toàn dân ti Canada. Người thán phc, k ước ao, nhưng cũng có không ít nhng nghi ng, thc mc: “Tin đâu mà chính ph Canada chi tr ni?”.

Người dân Canada, cũng như dân M, đu phi tr thuế li tc cho 2 chính ph: liên bang và tiu bang. Thuế sut được tính tùy thuc vào 4 nhóm li tc (income bracket). Thuế liên bang: Nhóm li tc thp nht (dưới 37.885 M kim) thuế sut 15%, nhóm li tc cao nht (trên 123.184 M kim) thuế sut 29%. Thuế tiu bang: thay đi theo tiu bang, nhưng cao nht là 18% và thp nht là 10%. Như thế, người dân Canada chu mc thuế li tc ti đa là 47%. Nhưng đây là mc thuế cho nhóm dân có li tc cao nht, sng ti tiu bang đánh thuế cao nht, ch đa s dân Canada ch tr thuế sut khong 25%.

H thng y tế ca Canada là h thng y tế công cng, toàn dân (universal public health care insurance) nghĩa là tt c mi người dân đu được bo him y tế, không tùy thuc vào vic làm hay li tc. Trên nguyên tc, người dân phi đóng tin bo him y tế hàng tháng. Nhưng nếu li tc sau khi tr thuế (net income) ca gia đình dưới 28.000 Gia kim/năm thì được gim và dưới 20.000 Gia kim/năm thì được min đóng. Còn lương trên 28.000 Gia kim thì mi tháng cũng ch đóng 54 Gia kim (Canadian dollar = 0.97 US dollar) cho cá nhân hay 96 Gia kim cho v chng, hay 108 Gia kim cho gia đình (3 người tr lên).

Nhng người đi làm vic thì tùy theo cơ quan hay công ty, có th được ch nhân tr cho phân na hoc bao luôn tin này. Như vy, vì s tin đóng bo him y tế hàng tháng quá thp, ch có tính cht rt tượng trưng, nên nói y tế Canada min phí thì cũng không sai, và toàn b dân chúng Canada đu có bo him y tế: đi khám bnh min phí, làm các xét nghim y khoa min phí, sinh đ min phí, cha tr bnh vin min phí, gn như cái gì liên quan đến y tế thì đu min phí.

H thng bnh vin Canada

Bác Sĩ P. N. V. Trang, hin đang sinh sng ti min Nam California nói vi nht báo Vin Đông: “Mình tng là bác sĩ, sng cùng b m Vancouver, Canada. Sau đó mình lp gia đình vi ông xã mình, anh Hưng, là bác sĩ hành ngh ti vùng Riverside và mình quyết đnh qua Hoa Kỳ đnh cư luôn. Có hai lý do khiến mình sang M. Th nht là ti Canada, mc lương bác sĩ b hn chế ch không như ti M, mình li thuc vào thành phn li tc cao, nên phi đóng thuế mc ti đa, trong khi ti M thì mc thuế thp hơn. Th hai là khi đó mình còn tr, 30 tui nên sc khe tt, đó là lý do mình không mun tr thuế quá cao khi mình hu như không bao gi cn đến các dch v y tế. Cho nên khi sang M, tuy mình không ly li được bng hành ngh bác sĩ (các bác sĩ t các nước khác hu như không th ly được bng tương đương đ hành ngh vì các điu kin khá gt gao ca B Y Tế Hoa kỳ nhm hn chế s lượng bác sĩ t nước ngoài), mình vn chp nhn b ngh và cho đến nay mình vn hài lòng vi quyết đnh này. T đó đến nay mình làm thư ký ti phòng mch ca ông xã”. 


Khi đ
ược hi v bo him y tế ti các bnh vin Canada, cô Trang cho biết: “Trước kia, khi sng ti Vancouver, mình làm vic ti bnh vin và còn có phòng mch riêng nên mình biết khá rõ v nn bo him y tế ca Canada. Người dân đt nước này, khi bnh thì đi gp bác sĩ đ được khám bnh min phí. Còn nếu bnh nng phi vào nhà thương, nhng người dân thường ch hơn người ăn welfare (tin tr cp xã hi) ch là h có th được nm mt phòng riêng, còn nhng ai ăn welfare phi nm chung phòng vi vài người khác, nhưng cha tr và thuc thang như nhau. Ngay c người homeless (không nhà ca) cũng có th nm cùng bnh vin vi mt triu phú, hay thm chí vi v Th Tướng vì Canada không có bnh vin tư và không có bnh vin riêng dành cho các quan chc. Mt khi đã vào bnh vin, không người dân nào tr mt đng xu. Đây là đim mà người dân Canada thường t hào v phương din y tế”.

Phm cht phc v Canada

Khi được yêu cu so sánh v phm cht phc v gia các bnh vin ti Canada và M, cô Trang cười: “Thế nếu như bn phi tr 10 ngàn, thm chí hai, ba chc ngàn đô la đ được ti khách sn 5 sao, và được cho free trong mt khách sn 3 sao thì bn chn cái nào? Theo cái nhìn rt cá nhân, cho phép mình tm xếp loi phm cht các bnh vin ti M và ti Canada như thế”.

Bác sĩ Canada lãnh lương như thế nào?

Cô Trang tiếp: “Tuy y tế Canada theo xã hi ch nghĩa nhưng không phi toàn b bác sĩ y tá lãnh lương c đnh như công nhân viên chc. Thay vì có hàng trăm hãng bo him y tế chi tr cho bác sĩ nhà thương như M, chính quyn các tiu bang Canada đóng vai trò medical insurer (nhà bo him y tế). Chính quyn quy đnh các chi phí dch v, khám bnh bao nhiêu tin, mt ln th máu bao nhiêu tin, mt ca phu thut bao nhiêu tin... và tr cho bác sĩ, nhà thương thc hin cácdch v đó. Thay vì gi hóa đơn tính tin cho các hãng medical insurance (bo him y tế) như M, bác sĩ và nhà thương Canada gi bill ti cho B Y Tế tiu bang. Do đó, gia các bác sĩ vn có s chênh lch li tc, ít bnh nhân thì li tc thp, nhiu bnh nhân thì li tc cao.Bnh vin đông bnh nhân, khéo qun lý thì thng dư ngân sách, ngược li thì chính ph phi bù l, nhưng nếu bnh vin b thâm ht quá thì rt có th s nm trong danh sách b đóng ca nếu có ct gim ngân sách".


Tuy nhiên, bác sĩ
Canada không kiếm được nhiu tin như bác sĩ M, vì giá c dch v do chính ph n đnh. Theo Vin Thông Tin Y Tế Canada (Canadian Institute for Health Infomation) thì trung bình bác sĩ gia đình (family doctor) ti Canada có mc thu nhp hng năm chng 240 ngàn Gia kim, trong khi bác sĩ chuyên môn (specialist) kiếm chng 340 ngàn Gia kim, là mc thu nhp thua xa nếu so vi các bác sĩ ti Hoa Kỳ.

Ngành dược ti Canada

Người viết bài này, đã hành ngh dược sĩ ti Québec, Canada, trong 12 năm, và sang M tiếp tc vi ngh này cho đến nay thêm 12 năm na. Gn 13 năm sng ti Canada, tôi chưa h, dù ch mt ln, cn đến dch v y tế (đi bác sĩ, mua thuc, chích nga, vào bnh vin, vân vân). Vi ngh dược sĩ, tôi thuc vào thành phn li tc khá, và phi đóng thuế 44%, trong khi ti California thì ch đóng 30%. Nếu tính theo mc lương dược sĩ thì 14% chênh lch thuế tương đương chng 1.300 M kim mt tháng. C xem như s tin này người dược sĩ mang quc tch Canada t mua bo him y tế cho mình (health insurance), coi như h mua s an tâm vì e rng mai này khi v già đ bnh ra thì s có chính ph đài th. Chc chn ai cũng phi nhìn nhn rng s tin đóng hng tháng này (1.300 M kim) là “vô cùng đt đ” cho mt người trong đ tui t 20 đến 35. Đó chính là câu tr li vì sao tôi cùng hng ngàn dược sĩ khác đã ri b Canada vào cui thp niên 1990 đ nhp vào M khi “cơn đói” dược sĩ lên cao nht ti khp nước M


Theo B
Y Tế Canada thì hin nay t l dược sĩ nm trong la tui t 23 đến 45 (la tui được xem là có xác sut bnh tt thp) là 42% và t 46 đến 65 tui là 54%. Và chính nh thu s tin này ca nhng người đi làm đóng thuế hàng năm mà chính ph có kh năng chi tr cho nhng bnh nhân ln tui đang cn được điu tr.

Người dân Canada mua thuc ra sao?

Khi b bnh thì người dân Canada đi gp bác sĩ min phí. Khi được bác sĩ cho toa mua thuc, nếu thuc vào thành phn li tc thp thì người bnh hoc là không phi tr hay tr rt ít. Nếu là thành phn t làm ch (self-employed) s phi móc tin túi ra tr, còn nhng người đi làm thuê và trong nơi làm vic có bo him y tế ph tri (extended medical insurance plan) thì s phi tr 20% tin thuc thôi, chương trình bo him y tế ph tri tr 80%. Có th nói là hu hết bnh nhân mua thuc đu được bo him bi chính ph, người ch nhà thuc ch cn gi hóa đơn cho chính ph hng tháng, và s được tr mt s tin c đnh cho mt toa thuc, nghĩa là cho dù dược sĩ bán mt món thuc X tr giá 10 M kim hay thuc Y tr giá 1.000 M kim thì cũng s được nhn mt s tin l phí phc v bng nhau.

Lm dng và gian ln

Ông Tim Menke - c vn ca phòng Tng Thanh Tra thuc B Y Tế Xã Hi Hoa Kỳ có cho biết: “Theo ước lượng, các v gian ln Medicare ti M đã gây thit hi cho qu thuế do công dân đóng góp khong 60 t M kim hàng năm”. Khi còn làm vic ti bnh vin và các nhà thuc ti Montréal trong nhng năm 1990, người viết cũng đã tng đc nhiu bài báo v các trường hp gian ln khi mt vài bnh vin hay dược phòng gi hóa đơn tính tin chính ph, nhưng trên thc tế h không h thc hin các dch v như trên giy t. Nhưng vì đã lâu và không đi sâu vào các con s thng kê, nên không còn nh được là vn đ này gây thit hi bao nhiêu cho đt nước Canada, nhưng chc chn phi là mt con s không nh


Gian l
n thường xut phát t hai lý do: th nht là vì không đ li tc (profit) nên con người phi gian ln đ duy trì thương v ca mình mà tn ti, th hai là vì lòng tham. Nếu gt bt đng lc vì lòng tham thì theo ý kiến cá nhân ca người viết, hin nay các bnh vin, phòng mch, nhà thuc không cn phi gian ln, ch vì s lượng người bnh đã quá đông đúc ri, nên không cn thiết phi gian ln mi đ sng hay có li nhiu. Nếu tính trung bình thì hin nay các nhà thuc tây ti min Nam Cali bán thuc cho hơn 100 toa mt ngày (tim nào được chng hơn 200 thì khá lm ri đó), trong khi ti Montréal hin nay, 400, 500 toa là chuyn thường ngày, thm chí có tim đến 800 toa, mt điu mà các ch nhân nhà thuc ti M “không dám mơ ti ni”. Lý do: S người già ti Canada đông quá mc nên nhu cu thuc men gia tăng mau như diu gp gió.

Cm gi bnh nhân 

Canada, khi người sn ph sinh con, đa s bnh vin đu có khuynh hướng kéo gi bnh nhân nm li tht nhiu ngày đ "theo dõi bnh tình", mc dù người ph n hoàn toàn khe mnh và xin cho v nhà sm. Lý do bnh vin chưa cho v đôi lúc khá bun cười, như vì bnh nhân còn "hơi táo bón" nên cn li đ được điu tr. Tht ra, đó ch là cái c đ bnh vin tiếp tc gi hóa đơn cho chính ph. (bên M sinh con mi 2 ngày là đã xut vin).


Người bnh thường xuyên đi bác sĩ

Còn người bnh Canada thì đng tí là đi bác sĩ, và dù bác sĩ có cho biết rng "Ông/Bà không sao, không bnh gì nng, ch cn v ngh ngơi", thì bnh nhân vn luôn luôn kỳ kèo bác sĩ cho mt toa thuc "gì đó" mi an tâm. Thế là đ “vui lòng khách đến, va lòng khách đi”, các bác sĩ thường cho 100 viên Tylenol (thm chí nhiu bác sĩ đã in sn trên toa, ch cn ký tên), mua v đ cho cht t thuc. Còn nếu bác sĩ đ bnh nhân ra v "tay không" thì rt d mt khách, nht là khách Vit Nam. Thế là các nhà thuc tây hu như nơi nào cũng đếm sn trước 100 viên Tylenol, h khách vào đưa toa ra thì có ngay l thuc, ch cn dán nhãn vô thôi. Mà Tylenol thì giá vn rt r, c gi hóa đơn cho chính ph ly tin l phí bán thuc, hóa ra c 3 đàng đu li (bnh nhân, bác sĩ, dược sĩ).
Nói thì có người không tin, hơn 15 năm trước, chính ph Canada còn “khá gi” nên tr luôn tin thuc vitamin, calcium, th gì cũng tr ... nên người ta thường gi b bnh, đi bác sĩ xin các loi thuc này đ ... gi v Vit nam làm quà cho thân nhân, bè bn. Nói chung, đây là hin tượng lm dng nn y tế công cng tràn lan ti Canada.

Nn "chy máu cht xám"

Anh V. John Bình, k sư đin toán đang làm vic ti min Bc California, k li: “Tôi ri Toronto năm 1998 đ sang San Jose làm vic khi cơn st computer lên đnh đim c hai nước. Ti x s Canada, nơi mà rt nhiu người ca ngi là thiên đường y tế, và thm chí t vài năm nay toàn nước M đang n ào tranh lun, và hng triu người Hoa Kỳ đang t v ra mt vin cnh an nhàn kiu như  "Tôi làm vic tàng tàng, đóng thuế chút chút, thm chí không cn làm, nhưng h bnh tt thì đã có chính ph lo". Nếu ch suy nghĩ thô thin như thế thì Canada đâu có tình trng chy máu cht xám nhc nhi t gn 15 năm nay. Gii tr (vi nhu cu y tế thp nht) và gii trí thc (thành phn đóng thuế cao nht) đu cm thy bt bình khi h phi đóng thuế quá cao, làm bao nhiêu đu phi np cho chính ph đ mà nuôi nhng ai không làm vic được, dù vì lý do bnh tt hay tht nghip. Tuy rng ai già cũng s đến lúc đó, nhưng tui tr không nghĩ như vy”.

Đòi hi s công bng

Anh Bình nhn xét: "Vi h, đó không phi là s công bng. Ma mai nht cho chính ph Canada là khi các tng lp trí thc (còn được gi là tng lp cht xám - bác sĩ, dược sĩ, y tá, nha sĩ, k sư, kiến trúc sư, vân vân...) được đào to hu như min phí (hay vi tin hc phí rt thp so vi M), thì khi va tt nghip đi làm vic vài năm là h nhn ra ngay s bt công này. Thế là đt nước Canada vi nn y tế tuyt vi không còn cm gi ni chân h na. Và đó chính là nguyên nhân gây ra nn chy máu cht xám (gii tr và thành phn trí thc t b Canada sang Hoa Kỳ làm vic) đã khiến chính ph Canada nhc đu và bt lc. Và tôi nm trong s đó. Tôi ri Toronto năm 28 tui, khi hu hết các bn bè đu rit nước lá phong" đ tìm đến "x s c hoa" - quc gia biu tượng cho s công bng. Tôi siêng năng thì tôi giàu, còn anh làm biếng thì anh nghèo, anh kh. Vi tôi, Hoa Kỳ là đt nước ca nhng người siêng năng và thành công, ch không phi ca nhng ai nm đó ch đi người khác đóng thuế nuôi mình". - (TV)

Ghi chú: Trên đây ch là ý kiến cá nhân ghi nhn t các người được phng vn, không nht thiết là ý kiến hay nhn xét ca nht báo Vin Đông.

 

_,___

Featured Post

Đây là lý do tại sao bạn nên nằm ngủ nghiêng về bên trái

  From: VUONG DANG < Date: Sun, Nov 22, 2020 at 8:10 PM Subject: Fw: Đây là lý do tại sao bạn nên nằm ngủ nghiêng về bên trái/Why Slee...

Popular Posts