---------- Forwarded message ----------
From: Tien Huynh
From: Tien Huynh
|
|||
Theo yêu cầu của một số thân hữu
và em, cháu trong gia tộc: Dịch ra tiếng Việt từ tiếng Anh và phổ biến lên đây.
Mong rằng nó chuyên chỡ được những thực tính của dược thảo và tâm linh lực để
giúp những bệnh nhân sớm phục hồi mà không cần phải tốn thì giờ thăm bác sĩ và
tiền thuốc. Nhất là những bệnh như thấp khớp, xương mộc gai và xơ
gan mà tây y không chửa trị được một cách rốt ráo nhưng dược thảo trị được
tận gốc rễ mà chính bản thân người sưu tầm chứng nghiệm. Nên rất tâm đắc để
giới thiệu đến thân hữu gần xa và những ai có duyên kỳ ngộ trong trang mạng
nầy.
Tên
|
Hình
|
Tác
Dụng và Trị Bệnh
|
Trái Táo (Apple)
|
Trị bệnh ỉa chảy ( Diarrhea). Để cho
trái táo héo lại và ăn luôn vỏ.
Ngăn chận táo bón (constipation) Giúp sự linh hoạt ở các khớp xương Bảo vệ tim. Gia tăng họat động phổi “an apple a day keeps the doctor away”. Ăn mỗi ngày một trái táo thì không cần đến bác sĩ |
|
Trái
Mơ (Apricot)
|
Chống ung thư
Hạ huyết áp Tăng cường thị giác Ngăn chận bệnh lãng trí ( alzheimer) Chống lão hóa |
|
Ạt Ti Sô (Artichokes)
|
Giúp tiêu hóa (aids digestion)
Giãm mỡ Bảo vệ tim Bình hòa lượng đường trong máu Chống lại bệnh về gan (liver diease) |
|
Trái Bơ ( Avocado)
|
Chống tiểu đường (diabetes)
Giãm lượng mỡ ( cholesterol) Bảo vệ gan Bảo vệ tim |
|
Trái Chuối ( Bannas) |
Bảo vệ tim
Ngưng ho Chắc xương Giãm huyết áp Ngưng tiêu chảy |
|
Đậu (Beans)
|
Chận táo bó
Giãm mỡ Chống ung thư Bình hòa đường |
|
Củ Cải Tiá (Beet)
|
Giãm huyết áp
Chống ung thư Chắc xương Bổ tim Giãm cân |
|
Hạt Chia (Chia seeds)
|
Bảo vệ tim
Chống ung thư Giãm lượng đường trong máu Trợ giúp tiêu hóa Chống lão hóa da Giãm cân Giãm huyết áp ...vv.. |
|
Hạt lanh - Flax seed
Flax (also known as common flax or linseed) (binomial name: Linum usitatissimum |
Giúp nhuận trường
Ngăn chận bệnh tiểu đường Bảo vệ tim Tăng cường hệ thống thần kinh Giúp tăng cường hệ thống miễn nhiểm |
|
Blueberry
|
Chống ung thư
Bảo vệ tim Bình hòa lượng đường trong máu Tăng cường trí nhớ Chống táo bón |
|
Cải Bông
(Brocoli)
|
Chắc xương
Giữ vững thị giác Chống ung thư Bảo vệ tim Giãm huyết áp |
|
Cải Bắp (Cabbage)
|
Chống ung thư
Chống táo bón Giãm cân Bảo vệ tim Giúp bệnh trĩ (helps hemorrrhoids) |
|
Dưa Đỏ (Cantaloupe)
|
Giữ vũng thị giác
Giãm huyết áp Giãm mỡ ( cholesterol) Chống ung thư Tăng cường hệ thống miễn nhiểm |
|
Củ cải đỏ (Carrot)
|
Giữ vũng thị giá
Bảo vệ tim Chống táo bón Chống ung thư Giãm cân |
|
Bông cải (Cauliflower)
|
Chống ung thư tuyến tiền liệt (Prostate
cancer)
Chống ung thư vú Chắc xương Làm tan vết bầm Bảo vệ tim |
|
Cherries
|
Bảo vệ tim
Chống ung thư Ngũ được (ends insomnia) Chống lão hóa Chống lãng trí |
|
Hạt dẻ (chestnut)
|
Gíup
giãm cân
Bảo vệ tim Giãm mỡ Chống ung thư Giãm huyết áp |
|
Trái Ớt (Chili peppers)
Red Pepper |
Giúp nhuận trường
Làm dịu cơn đau cổ họng Làm khô nước mũi Chống ung thư Tăng cường hệ thống miễn nhiễm Trị ho |
|
Fig (Quả sung)
|
Giúp giãm cân
Chận tai biếng ( stroke) Giãm mỡ Chống ung thư Giãm huyết áp |
|
Củ Tỏi (
Garlic)
|
Giãm mỡ
Giãm huyết áp Chống ung thư Diệt vi khuẩn ( kill bacteria) Chống gây nốt sùi ( fights fungus) |
|
Trái Bưởi (grapefruit)
|
Bảo vệ tim
Giúp giãm cân Giúp ngăn chận tai biếng Chống ung thư tuyến tiền liệt Giãm mỡ |
|
Trái Nho (grapes)
|
Giữ vững thị giác
Chế ngự được sạn thận Chống ung thư Hoạnh thông hệ thống tuần hoàn Bảo vệ tim |
|
Trà xanh (green tea)
|
Chống ung thư
Bảo vệ tim Ngăn chận tai biếng Giãm cân Diệt vi khuẩn |
|
Mật Ong (honey)
|
Giúp lành vết thương
Giúp nhuận trường Chống lại đẹn ( ulcer) Tăng cường năng lực Chống vị ứng |
|
Trái Chanh (lemon)
Trái Hạnh (lime) |
Chống ung thư
Bảo vệ tim Giãm huyết áp Làm da mịn màng Ngưng bệnh scopat ( stop scurvy) |
|
Trái Soài (mango)
|
Chống ung thư
Tăng cường trí nhớ Điều hòa tuyến giáp trạng (regulates thyroid) Giúp nhuận trường Ngăn chận bệnh lãng trí |
|
Nấm (Mushroom)
|
Giãm huyết áp
Giãm mỡ Diệt vi khuẩn Chống ung thư Chắc xương |
|
Yến Mạch (Oat)
|
Giãm mỡ
Chống ung thư Chận lượng đường trong máu Chống táo bón Làm da mịn màng |
|
Dầu Olive (Olive oil)
|
Bảo vệ tim
Giúp giãm cân Chống ung thư Chận lượng đường trong máu Làm da mịn màng |
|
Củ Hành (Onion)
|
Giãm nguy cơ bệnh tim
Chống ung thư Diệt vi khuẩn Giãm mỡ Chống gây nốt sùi |
|
Củ Hành Đỏ (Red onion)
|
Trị bệnh suyễn ( asthma)
Lát mõng ra rồi ăn sống hay nấu chín. Nếu ăn sống được thì tốt hơn, vì dược tính không bị mất. |
|
Trái Cam (Orange)
|
Tăng cường hệ thống miễn nhiễm
Chống ưng thư Bảo vệ tim Hoạnh thông hệ thống hô hấpm |
|
Trái Đào (Peach)
|
Chống táo bón
Chống ung thư Ngăn chận tai biếng Trợ giúp tiêu hóa Giúp bệnh trĩ bớt đau |
|
Hạt Lạc (Peanut)
|
Chống lại bệnh về ti
Giúp giãm cân Chống lại bệnh ung thư tuyến tiền liệt Giãm mỡ Làm cho bệnh đau ruột già trầm trọng hơn (Aggravates diverticulitis) |
|
Trái Thơm (Pineapple)
|
Làm chắc xương
Trị cãm Trợ giúp tiêu hóa Trị dứt mụn cóc Ngưng ỉa chảy |
|
Trái mận khô (Prunes)
|
Chống khô da
Chống táo bón Giúp tăng cường trí nhớ Giãm mỡ Chống lại bệnh về tim |
|
Gạo (Rice)
|
Bảo vệ tim
Giãm lượng đường trong máu Loại trừ được sạn thận (kidney stone) Chống ung thư Ngăn ngừa tai biếng |
|
Trái Dâu ( Strawberry)
|
Chống ung thư
Bảo vệ tim Giúp trí nhớ Giãm stress |
|
Củ Khoai (Sweetpotatoes)
|
Giữ vũng thị giác
Chắc xương Chống ung thư Tránh bệnh về tim |
|
Trái Cà Chua
(tomatoes)
|
Bảo vệ tuyến tiền liệt
Chống ung thư Giãm mỡ Bảo vệ tim |
|
Trái Óc Chó (Walnut)
|
Giãm mỡ
Chống ung thư Tăng trí nhớ Bảo vệ tim |
|
Trái Dưa Hấu (watermelon)
|
Bảo vệ tuyến tiền liệt
Giúp giãm cân Giãm mỡ Giãm huyết áp Ngăn chận tai biếng |
|
Mầm Lúa Mì (Wheat germ)
Cám Lúa mì ( Wheat bran) |
Chống ung thư ruột
Chống táo bón Giãm mỡ Ngăn chận tai biếng Cải thiện hệ thống tiêu hóat |
|
Nước (water)
|
Giúp giãm cân
Chống ung thư Giúp trí nhớ Làm da mịn màng Một cơ thể của một người lớn cần ít nhất là hai lít nước trong một ngàyn |
|
Yogurt
|
Phòng chống lỡ da (đẹn) Ulcer
Làm chắc xương Giãm mỡ Giúp tăng cường hệ thống miễn nhiểm Trợ giúp hệ thống tiêu hóa |
|
Cây Mướp Gai
Mướp Gai chát hơi
hàn giải nhiệt,
Bịnh thủng sưng ban
trái trừ xong.
Độc thuỷ tà phạm
thận tả thông,
Uất tiểu tiện bại tê
cần dụng.
Cây Diệp Hạ Châu |
Trị Bệnh xơ
gan và viêm gan B
Cây mướp gai còn được gọi là mướp rừng. còn có công dụng trị bệnh sơ gan và viêm gan B . Cây mướp gai và cây diệp hạ châu đều trị bệnh sơ gan và viêm gan B rất hiệu quả. Để trị bệnh xơ gan và viêm gan B thì nấu như thuốc nam, đỗ ba chén nước vào cái siêu và cho lá ,ngọn và rễ (sau khi phơi khô) vào vừa ngang mặt nước, nấu còn lại 8/10 chén thì được. Khi nấu lửa nhỏ, khoản chừng 1 giờ rưỡi cho tới hai giờ thì mới còn lại 8 phân. Nếu không có siêu thì dùng máy nấu nước bằng điện với độ nấu chậm (slow cook). Sau đó nấu nước hai làm nước uống thay cho nước lạnh. Uống 30 ngày , mỗi ngày một thang , kết quả thử máu sẽ cho thấy sự hiệu quả. Xem chi tiết về thực vật học phần dưới. |
|
Cây Xăng
máu
Tên khoa học: Horsfielddia irya Warbg. |
Trị
bệnh xương mộc gai ở cổ, chân, xương sống ...
Chặt rễ cây hay nhánh cây ra mõng chừng 1 hay 2 ly rồi phơi khô và sau đó đem sao trong nồi đất rồi hạ thổ . Cho ba (3) chén nước vào cái siêu rồi cho những lát mỏng của cây xăng máu vào siêu khi thấy vừa ngang mặt nước là đủ. Nấu lửa nhỏ , khoản 1 tiếng rưỡi đồng hồ đến khi còn lại 8 phần mười (8/10) chén thì được. Sau khi phơi khô thì có màu đỏ như máu. Uống vào thì có vị chua và chát thì đúng là xăng máu. Nấu nước nhì làm nước uống thì kết quả nhanh hơn. Uống 30 thang, mỗi ngày một thang sẽ không còn bị tê hay nhứt nữa. Kết quả chụp quang tuyến hay scan sẽ cho thấy sư hiệu nghiệm của nó.
Xem
chi tiết phần dưới
|
|
Lá Rau Má
Swamp Pennywort. |
Trị Bệnh thấp khớp
Tháng 12 năm 2003 vừa qua, Trong chương trình phóng sự hàng ngày The Current Affair của đài truyền hình số 9 tại Sydney có tường thuật một số người Úc đã tự chữa bịnh thấp khớp bằng loại thảo dược dân gian cổ truyền (folk medicine) . Mỗi ngày chỉ cần nhai hai lá rau má tươi và nuốt sống, một thời gian sau, bịnh thấp khớp có thể giảm bớt hoặc bình phục. Các bài tường thuật này trùng hợp với tài liệu trong sách Arthrtis and Paradoxical Pennywort (Bịnh thấp khớp và lá rau má) của tác giả Russ Maslen, nên chúng tôi xin trích dịch một đoạn trong quyển sách ấy để cống hiến quý độc giả tham khảo.( xem tiếp phần dưới) |
|
Hạt Hạnh
Almond |
Giãm
mở (cholesterol)
Chưá nhiều vitamin E chất calcium và magnesium giúp chống lại bệnh ung thư và tim mạch. Giúp tăng sức mạnh cuả xương. Xem tiếp chi tiết phấn dưới (trang 2) |
|
Củ Nghệ
Turmeric |
1. Nghệ giúp giảm cân, lưu thông và lọc máu.
2. Nghệ giúp cơ thể chống lại các vi khuẩn sống ký sinh trong ruột, đặc biệt tốt cho hệ tiêu hoá. 3. Mới đây người ta đã chứng minh được rằng có thể sử dụng nghệ để chống ung thư và nghệ có khả năng kháng viêm, giảm nguy cơ nhiễm trùng. 4. Có thể dùng nghệ để khử trùng và mau lành vết thương. Xem chi tiết phần dưới ( trang 2) |
Hạt Chia
Nutritional
information
Thành Phần Dinh Dưỡng
Average per 10g
|
Average per 100g
|
|
Energy
|
192Kj
|
1920Kj
|
Protein
|
2.0g
|
20.4g
|
Fat,
total
|
3.4g
|
30.4g
|
Saturated
|
0.4g
|
4.0g
|
Monounsaturated
|
0.3g
|
3.3g
|
Omega 5
|
3.4g
|
34.0g
|
Omega 7
|
3.5g
|
35.0g
|
Omega 9
|
201.1mg
|
2011mg
|
Polyunsaturated
|
2.6g
|
26.4g
|
Omega 3
|
1.9g
|
19.3g
|
Omega 6
|
0.7g
|
7.1g
|
Carbohydrates
|
3.7g
|
37.0g
|
Sugars
|
0.0g
|
0.0g
|
Fibre
|
3.6g
|
36.0g
|
Calcium
|
50mg
|
500mg
|
Potassium
|
50mg
|
500mg
|
Magnesium
|
29mg
|
290mg
|
Iron
|
0,6mg
|
6.4mg
|
Phosphorous
|
60mg
|
600mg
|
HẠT LANH
(Pháp: Graines de lin;
Anh: Flaxseeds, linseeds; La-tinh: Linum usitatissimum)
Dược sĩ Lê-văn-Nhân
Từ điển Cây thuốc
Việt-nam của Võ-văn-Chi hay sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt-nam của
nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật gọi cây này là cây lanh hay lanh mán, đọc
theo phiên âm tiếng Pháp. Cây này di thực vào trồng ở Sa-pa Việt-nam để làm
sợi, nhưng nay không còn nữa. Tự điển tiếng Anh bảo cây “flax” là một cây có
hoa màu xanh, trồng để lấy sợi dệt vải lanh. Tên La-tinh có nghĩa là cây hữu
dụng nhất. Có thể vào trang web www.flaxcouncil.ca
xem hình hoa flax, có bán hột lanh tại Cananda và trả lời những câu hỏi về cây
này.
Chúng tôi trình bày cây này không phải vì tính công nghiệp mà do trào lưu dùng
omega-3. Hạt lanh hay flaxseeds là nguồn cung cấp omega-3 thực vật.
Hạt lanh hơi lớn hơn hạt mè và có vỏ cứng trơn và sáng, màu sắc từ vàng sẫm đến
nâu đỏ tùy thuộc cây lanh đó giống vàng hay nâu. Vị hạt lanh ấm. Người ta
thường ăn hạt đã xay để tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng.
Cây lanh có vị trí lịch sử lâu đời ở Âu châu, vì vua Charlemagne nước Pháp khi
thấy cây này có giá trị trong việc nấu nướng, y học và sợi để dệt vải, liền ra
đạo luật yêu cầu trồng và ăn hạt này. Sau Charlemagne, hạt lanh được tán thưởng
khắp cả Âu châu. Đến thế kỷ 17, những người di dân mang hạt lanh qua trồng tại
Canada, là nước hiện nay sản xuất hạt này nhiều nhất tại Mỹ châu.
Chúng tôi không thấy hạt lanh bán ở các hiệu thuốc tại Hoa-kỳ, nhưng bác sĩ ở
Montreal Canada còn cho toa “Graines de Lin” cho bệnh nhân cao tuổi, có lẽ để
chữa bệnh táo bón, vì làm tăng thể tích của phân (bulk-forming). Mua hạt chưa
xay thì giữ lâu hơn, nhưng về phải xay lấy. Còn mua hạt đã xay thành bột, thì
phải đóng gói trong bao chân không hàn kín, vì để lâu dầu sẽ bị oxýt hóa và
không còn giá trị dinh dưỡng nữa. Hạt xay nên để trong tủ lanh hay trong ngăn
đá để khỏi bị hỏng.
Dầu lanh phải mua trong chai mờ đục và giữ trong tủ lạnh. Dầu
lanh phải có vị ngọt của hạt trái cây. Không được dùng dầu lanh để nấu ăn, mà
chỉ thêm vào thức ăn sau khi đã nấu chín.
Giá trị dinh dưỡng của hạt lanh:
2 muỗng canh = 19.38 gam = 95.33 calo
Chất dinh dưỡng
|
Trọng lượng
|
omega-3
|
3.51 g
|
Mangan
|
0.64 mg
|
chất xơ
|
5.41 g
|
Ma-giê
|
70.14 mg
|
Folate
|
53.86 mcg
|
Đồng
|
0.20 mg
|
Phosphorus
|
94.49 mg
|
Vitamin B6
|
0.18 mg
|
Lợi ích cho sức khỏe:
Hạt lanh giàu
Alpha-Linoleic Acid viết tắt là ALA, một chất béo omega-3, tiền chất của
omega-3 trong dầu cá gọi là EicosaPentaenoic Acid (EPA). Muốn chuyển từ ALA
sang EPA, cần enzym chuyển hóa delta-6-destaurase, mà ở một số cá nhân không
hiện hữu hay không hoạt động bằng người khác. Ngoài ra, chức năng của enzym này
bị ức chế ở người bệnh tiểu đường hay ăn chất béo bảo hòa hay uống rượu. Vì
những lý do này, phải dùng liều cao dầu lanh hay hạt lanh mới có cùng lợi ích
như khi dùng omega-3 ở dầu cá. Một nghiên cứu đăng trong Journal of Nutrition
tìm thấy viên nang dầu hạt lanh cung cấp 3 gam ALA mỗi ngày trong 12 tuần tương
đương với 3 muổng canh (45 ml) dầu lanh sẽ tăng mức EPA 60%. Tuy nhiên, lượng
dầu này sẽ cung cấp đến ¼ calo cần thiết cho một ngày.
Lợi ích chống viêm:
Chất béo omega-3 được
cơ thể dùng để tạo ra 2 nhóm prostaglandin 1 và 3, là những phân tử giống
hormone chống viêm, trái với nhóm prostaglandin 2 là những phân tử gây viêm tạo
ra bởi những chất béo khác, nhất là acid béo omega-6, có nhiều trong mỡ động
vật, margarine, và nhiều loại dầu thực vật như dầu bắp, dầu rum (safflower),
dầu hướng dương, dầu cọ và dầu phụng. Chất béo omega-3 có thể giúp giảm viêm là
yếu tố chính trong những bệnh như hen suyển, thoái hóa khớp, viêm khớp do thấp,
nhức đầu migraine và xốp xương.
Hạt lanh giàu omega-3
bảo vệ xương:
ALA, acid béo omega-3
trong hạt lanh và hạt óc chó (walnut), giúp xương khỏe mạnh bằng cách giúp ngăn
ngừa tế bào xương thay đổi thái quá. Khi dùng thức ăn giàu omega 3, sẽ làm giảm
tỷ số omega-6/omega-3 trong tiết thực.
Những nghiên cứu khác cho thấy thực phẩm giàu omega-3 ở cá (DHA và EPA) cũng
làm giảm tỷ số omega-6/omega-3, giảm mất xương. Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng có
thể omega-6 chuyển thành prostaglandin gây viêm, trong khi omega-3 chuyển hóa
thành prostaglandin chống viêm.
Trong nghiên cứu này, 23 người tham dự ăn 1 trong 3 chế độ tiết thực trong 6
tuần với 3 tuần “washout” (rửa sạch chất nghiên cứu trước khi dùng chất khác)
giữa các chế độ tiết thực. Cả 3 chế độ cung cấp lượng chất béo như nhau, nhưng
tỷ số omega-6/omega-3 khác nhau nhiều.
Chế độ ăn số 1 cung cấp 34% thức béo toàn phần gồm omega-6
và omega-3 với số lượng giống như bữa ăn bình thường của người Mỹ: 9% chất béo
nhiều dấu nối đôi (PUFA: polyunsaturated fats) trong đó 7.7% là omega-6 và chỉ
0.8% là omega-3, đưa đến tỷ số omega-6/omega-3 = 9.6/1 giúp gây viêm.
Chế độ ăn số 2 giàu omega-6, cung cấp 37% chất béo toàn phần
chứa 16% PUFA với tỷ số omega-6/omega-3 = 12/3.6 = 3.3/1, vẫn còn có tính gây
viêm.
Chế độ ăn thứ 3 cung cấp 38% thức béo toàn phần giàu omega-3,
chứa 17% PUFA trong đó 10.5% là omega-6 và 6.5% là omega-3, tỷ số
omega-6/omega-3 = 1.6/1 có tính chống viêm.
Sau mỗi chế độ ăn, người la đo mức N-telopeptides,chất đánh dấu xương thoái
hóa, và thấy thấp nhất ở chế độ ăn số 3 là chế độ ăn giàu omega-3. Mức
N-telopeptides trong máu những người ở mỗi chế ăn liên quan đến mức độ chất
đánh dấu viêm TNF-α (Tumor necrosis factor-alpha) tạm dịch là yếu tố ngoại tử
bườu alpha. Chế độ ăn 1 và 2 giàu omega-6 có mức TNF-α cao hơn chế độ ăn số 3
giàu omega-3 trong hạt lanh.
Bảo vệ chống bệnh tim,
ung thư và tiểu đường:
Chất béo omega-3 dùng
để sản xuất những chất giảm thành lập huyết khối, nên giảm nguy cơ bệnh nhồi
máu cơ tim và đột quỵ ở bệnh nhân xơ vữa động mạch hay bệnh tim cùng với tiểu
đường.
Chất béo omega-3 cũng cần thiết để sinh ra màng tế bào mềm dẻo. Màng tế bào là
người giữ cổng, cho phép chỉ những chất dinh dưỡng cần thiết và giúp loại thải
các chất bã. Màng tế bào tối cần thiết cho người bệnh tiểu đường vì màng tế bào
mềm dẻo tốt hơn để đáp ứng với insulin và hấp thu glucose hơn là màng cứng do
chất béo bảo hòa hay chất béo trans hydro hóa. Trong ruột già, omega-3 giúp bảo
vệ tế bào ruột khỏi bị ung thư do các độc tố và các gốc tự do gây ra, giảm nguy
cơ ung thư ruột già.
Hạt lanh cũng hạ
cholesterol giống statin:
Trong một nghiên cứu
gồm 40 người cao cholesterol (>240 mg/dl), mỗi ngày ăn 20g hạt lanh xay được
so sánh với người dùng statin. Sau 60 ngày, người ta thấy giảm đáng kể
cholesterol toàn phần, LDL hay cholesterol xấu, triglycerid và tỷ số
cholesterol toàn phần/HDL ở cả 2 nhóm.
Chỉ số khối lượng cơ thể BMI, cholesterol toàn phần, HDL, LDL, triglycerid và
tỷ số cholesterol toàn phần/HDL được đo khi bắt đầu và sau 60 ngày.
Những người ăn hạt lanh, cholesterol toàn phần giảm 17.2%, LDL giảm 3.9%,
triglycerid giảm 36.3%, tỷ số cholesterol toàn phần/HDL giảm 33.5% so với mức
căn bản.
Dầu lanh giảm huyết áp ở
đàn ông cao cholesterol:
Các nhà nghiên cứu
Hy-lạp tìm tác dụng trên huyết áp tâm thu và tâm trương trong một nghiên cứu 3
tháng ở 59 người đàn ông trung niên dùng hoặc dầu lanh hay dầu rum (safflower)
trong món ăn thường ngày.
Dầu lanh giàu chất béo omega-3, alpha-linoleic acid (ALA), mà cơ thể chuyển hóa
thành acid béo bổ ích omega-3 chuỗi dài, DHA và EPA, trong khi dầu rum
(safflower) là nguồn cung cấp omega-6, acid linoleic (LA). Đàn ông dùng dầu
lanh cung cấp 8 gam ALA mỗi ngày hay dầu rum cung cấp 11 g LA mỗi ngày.
Ở điều kiện 12 tuần nghiên cứu, huyết áp tâm thu và tâm trương giảm đáng kể ở
người dùng dầu lanh giàu omega-3.
Một giải thích khả dĩ cho kết quả này là tính chống viêm của chất béo omega-3.
Cả hai omega-6 và omega-3 đều là acid béo thiết yếu cho cơ thể (cơ thể không tự
tổng hợp được): chúng ta cần cả 2 loại chất béo này để giữ sức khỏe tốt và phải
lấy từ thức ăn. Tuy nhiên, chất béo omega-6 có khuynh hướng gây viêm quá đáng
khi không cân bằng với đủ lượng chất béo omega-3 trong thức ăn. Phần lớn những
nhà dinh dưỡng tin rằng tỷ số giúp cho sức khỏe omega-6/omega-3 không quá 4/1,
và nhiều người tin rằng tỷ số tối hảo là 2/1. Tuy nhiên, thức ăn của người Mỹ
cung cấp omega-6 gấp 10 lần omega-3!
Omega-3 có thể giảm
huyết áp:
Omega-3 trong đó có
ALA từ hạt lanh, có thể giúp hạ huyết áp. Đó là kết luận của một nghiên cứu
quan sát dữ liệu ở 4680 người Trung quốc, Nhật-bản, vương quốc Anh và Hoa-kỳ.
Các nhà nghiên cứu nhìn vào huyết áp và omega-3 trong thức ăn. Sau khi bù trừ
một số yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp (như tuổi tác, trọng lượng, thể dục, muối
ăn vào, phái tính và lượng rượu uống), các nhà nghiên cứu kết luận chế độ ăn
giàu omega-3 liên quan với:
giảm huyết áp trung bình
0.6 mm Hg tâm thu cũng
như tâm trương
giảm huyết áp tâm thu và
tâm trương 1 mm Hg trong số 2238
người không có chế độ ăn đặc biệt hay dùng thuốc hỗ trợ dinh dưỡng hay thuốc hạ
huyết áp hay bệnh tim hay tiểu đường;
giảm huyết áp tâm thu và
tâm trương 0.9 mm Hg trong số
2038 người không cao huyết.
Thực phẩm chứa omega-3 có nhiều tác dụng hơn ở người không uống thuốc hay chưa
phát sinh bệnh cao huyết áp, theo lời bác sĩ Hirotsugu Ueshima, giáo sư và chủ
nhiệm bộ môn khoa học y tế đại học y khoa Shiga Nhật-bản.
Những nghiên cứu trước đây cho thấy khi giảm huyết áp được 2 mm hg có thể giảm
tử vong do đột quỵ khoảng 6% và do bệnh tim động mạch vành khoảng 4%.
Bác sĩ Ueshima bảo, với huyết áp, mỗi mm Hg đều quan trọng. Tác dụng của mỗi
chất dinh dưỡng dầu nhỏ nhưng không phụ thuộc chất khác, khi hợp lại sẽ có tác
dụng rõ rệt trên huyết áp. Nếu có thể giảm huyết áp vài mm do ăn ít muối hơn,
giảm vài kilô, tránh uống nhiều rượu, ăn nhiều rau, hạt chưa xay và trái cây
(do thành phần chất xơ, khoáng chất, protein thực vật và những chất dinh dưỡng
khác) và dùng thêm omega-3, chúng ta sẽ sẽ tạo ra khác biệt đáng kể. (Theo Hypertension 06/07).
Cung cấp chất xơ có lợi:
Hạt và bột hạt lanh là
nguồn cung cấp chất xơ có thể làm giảm cholesterol ở người bệnh xơ vữa động
mạch và bệnh tim tiểu đường, giảm tế bào ruột non phơi nhiễm với hóa chất gây
ung thư, giúp giảm táo bón và ổn định mức đường trong máu ở người bệnh tiểu
đường. Hạt lanh cũng là nguồn cung cấp ma-giê, giúp giảm mức trầm trọng bệnh
suyễn bằng cách giúp cho khí đạo mở và thư dãn, hạ huyết áp và giảm nguy cơ
nhồi máu cơ tim và đột quỵ ở người xơ vữa động mạch và bệnh tim tiểu đường,
ngăn ngừa co thắt mạch máu đưa đến cơn nhức đầu migrên, và thường khuyến khích
thư dãn và tái tạo giấc ngủ bình thường.
Một nghiên cứu đăng trong Archives of Internal Medicine xác nhận ăn thức ăn
giàu chất xơ như hạt lanh, giúp ngừa bệnh tim. Hầu hết 10 000 người lớn Mỹ tham
dự vào nghiên cứu này và được theo dõi trong 19 năm. Những người ăn nhiều chất
xơ, 21 gam mỗi ngày, giảm bệnh tim động mạch vành 12% và bệnh tim mạch 11% so
với những người ăn ít hơn 5 gam chất xơ mỗi ngày. Những người ăn nhiều chất xơ
hòa tan trong nước có kết quả tốt hơn, giảm 15% nguy cơ bệnh tim động mạch vành
và 10% nguy cơ bệnh tim mạch.
Hạt lanh ngăn tiến triển
ung thư tuyến tiền liệt đàn ông
Một nghiên cứu được
tài trợ bởi viện ung thư quốc gia và viện y tế quốc gia Hoa-kỳ, hạt lanh được
cung cấp bởi công ty Enreco Inc.. Liều mỗi ngày là 30 gam khoảng 3 muổng canh
đầy, và hạt lanh được xay và trộn với thức ăn và uống. Kết quả báo cáo trong
đại hội ung thư lâm sàng Hoa-kỳ lần thứ 43 đầu tháng 6/07.
Hạt lanh là nguồn giàu chất lignan (“lich” là gỗ) có nhiều hoạt tính có thể hữu
ích trong ung thư. Lignan ảnh hưởng chuyển hóa androgen, chống nguyên phân
(mitosis) và chống oxýt hóa
Các nhà nghiên cứu chia người tham dự thành 4 nhóm chế độ ăn: giả dược kiểm
chứng, hạt lanh, chế độ ăn ít chất béo, và kết hợp hạt lanh với ít chất béo.
Nghiên cứu thực hiện ở 161 bệnh nhân đã lên lịch mổ cắt tuyến tiền liệt. Người
tham dự có thời gian trung bình 30 ngày rồi giải phẫu. Mô cắt bỏ được gởi cho 2
bác sĩ chuyên khoa bệnh lý để phân tích.
Nghiên cứu đầu cho thấy giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng u bướu ở 2 nhóm dùng
hạt lanh (P=0.0013) và ở nhóm dùng ít chất béo độ giảm chưa có ý nghĩa thống
kê)
Tốc độ tăng trưởng trung bình của u bướu tuyến tiền liệt:
Kiểm chứng
|
Hạt lanh
|
Giảm chất béo
|
hạt lanh + giảm chất béo
|
3.23
|
1.66
|
2.56
|
1.55
|
Kết quả gợi ý tế bào ung thư mọc với tốc độ chậm hơn đáng kể
(khoảng 30-40%) ở 2 nhóm dùng hạt lanh so với nhóm dùng giả dược hay chỉ dùng
thức ăn ít chất béo. Điều này cho thấy lignan giảm tốc độ tăng trưởng tế bào
ung thư tuyến tiền liệt.
Nghiên cứu thứ hai bao gồm tế bào ung thư tuyến tiền liệt tự hủy (apoptosis) và
quan sát mô lành tính, cho thấy không có khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm, nhưng
bệnh nhân dùng chế độ ít chất béo cho thấy giảm cholesterol đáng kể, điều này
không ngạc nhiên.
Bác sĩ cầm đầu cuộc nghiên cứu cho biết điều ngạc nhiên là không thấy giảm
testosterone nhưng dự kiến.Có thể omega-3 đã tác dụng lên độ dính của tế bào
ung thư với nhau, và lignan cũng có thể có tính chống sinh mạch làm mất nguồn
nuôi dưỡng u bướu. Tuy nhiên những giả thuyết về cơ chế này cần phải có thêm
nghiên cứu xác nhận.
Bảo vệ đặc biệt cho phụ
nữ:
Hạt lanh được nghiên
cứu trễ hơn một chút về lợi ích bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ. Hạt lanh đặc biệt
giàu chất lignan, hợp chất đặc biệt cũng tìm thấy trong các hạt khác và rau
được vi khuẩn ruột chuyển thành 2 chất giống hormone gọi là enterolactone và
enterodione. Hai chất này chứng tỏ một số tác dụng bảo vệ chống ung thư vú và
được tin là một lý do giúp người ăn chay ít nguy cơ bị ung thư vú hơn. Nghiên
cứu cho thấy phụ nữ bị ung thư vú và phụ nữ ăn thit bài tiết trong nước tiểu ít
lương lignan hơn phụ nữ ăn chay không bị ung thư vú. Nghiên cứu ở thú vật để
đánh giá lợi ích của lignan,cung cấp thức ăn giàu chất béo bằng bột hạt lanh
giảm những chất đánh dấu sớm ung thư vú ở thú vật phòng thí nghiệm hơn 55%.
Trong một nghiên cứu đăng trên American
Journal of Clinical Nutrition, khi những phụ nữ sau tuổi mãn kinh
ăn mỗi ngày 1 bánh “muffin” chứa hoặc 25 g protein đậu nành, 25 g bột hạt lanh
hoặc giả dược trong 16 tuần, chuyển hóa estrogen ở người ăn hạt lanh, chứ không
phải đậu nành hay chất vờ, được biến đổi bằng nhiều lối bảo vệ quan trọng:
. -hydroxyestrone, một chất chuyển hóa của estrogen ít hoạt tính sinh học hơn
được cho là bảo vệ chống ung thư vú, tăng cao đáng kể;
* tỷ số 2-hydroxyestrone (chuyển hóa estrogen bảo vệ) trên
16-alpha-hydroxyestrone (chuyển hóa estrogen nghi gây ung thư) tăng cao;
* mức thành phần estrogen trong máu (estradiol, estrone, và estrone sulfate)
không thay đổi đáng kể là điều quan trọng, vì estradiol tham dự vào tiến trình
bảo vệ khối lượng xương.
Như vậy có nghĩa là mỗi ngày ăn 1 ounce (khoảng 30 g) hạt lanh xay sẽ tác động
lên estrogen phụ nữ sau tuổi mãn kinh giúp chống ung thư vú nhưng không can
thiệp vào vai trò của estrogen bảo vệ khối lượng xương.
Lignan cũng giúp rụng trứng bình thường và kéo dài pha progesterone trong chu
kỳ kinh nguyệt. Phụ nữ muốn có thai, nếu trứng rụng đều đặn sẽ có nhiều cơ may
thụ thai hơn. Phụ nữ từ 35 đến 55 tuổi, có những triệu chứng lúc hành kinh như
kinh nguyệt không đều, có nang trong vú, nhức đầu, khó ngủ, ứ nước, lo lắng,
bức rức, thay đổi tâm tính, lên cân, không ham thích chuyện chăn gối, trí não
mơ hồ, u xơ và kinh ra nhiều, nguyên nhân khả dĩ là estrogen quá mạnh.
Khoảng
10 năm trước khi hết kinh, mức estrogen giao động trong khi mức progesterone
xuống đều đặn. Hạt lanh, có giúp trứng rụng và kéo dài pha progesterone, giúp
tái tạo cân bằng nội tiết tố. Nghiên cứu sơ khởi cũng gợi ý hạt lanh có thể có
tính bảo vệ phụ nữ sau tuổi mãn kinh khỏi bị bệnh tim mạch. Trong một nghiên cứu
mới đây mù đôi và ngẫu nhiên, hạt lanh giảm mức cholesterol toàn phần ở phụ nữ
sau tuổi mãn kinh khoảng 6% mà không cần dùng thuốc thay thế nội tiết tố.
Cuối cùng, chất xơ giàu lignan cũng cho thấy làm giảm đề kháng insulin, do đó,
giảm sinh khả dụng estrogen, làm giảm nguy cơ ung thư vú. Vì đề kháng insulin
là dấu hiệu cảnh báo bệnh tiểu đường tip 2, hạt lanh có thể bảo vệ chống bệnh
tiểu đường.
Chống khô mắt:
Hội chứng khô mắt
thường xảy ra ở người cao tuổi. Nhỏ nước mắt giả chỉ giải quyết tạm thời. Một
nghiên cứu trên American
Journal of Clinical Nutrition gồm 40 ngàn phụ nữ có nghề chuyên môn
tuổi từ 45 đến 84 tham dự vào nghiên cứu sức khỏe phụ nữ.
Các nhà nghiên cứu ở bệnh viện Brigham và phụ nữ muốn biết các chất chứa
omega-3 (hạt lanh) và omega-6 (thịt đỏ, rượu rum, dầu đậu nành và dầu bắp) có
giữ vai trò gì không. Phụ nữ dùng nhiều omega-3 trong thức ăn có nguy cơ khô
mắt thấp hơn 17% so với người dùng ít nhất. Trái lại, thức ăn giàu omega-6
nhưng thấp omega-3 tăng đáng kể hội chứng khô mắt. Phụ nữ dùng chế độ ăn với tỷ
số cao omega-6/omega-3 có nguy cơ khô mắt cao gấp 2.5 lần.
Nhắc lại công thức
acid béo omega-3:
EPA (EicosaPentaenoic Acid) là acid béo chuỗi
thẳng có 20 carbon và 5 dấu nối đôi cis. Dấu nối cuối cách carbon omega hay
carbon đuôi ở vị trí 3.
DHA (Docahexaenoic
Acid) là acid béo chuỗi thẳng gồm 22 carbon và 6 dấu nối đôi cis, dấu nối đôi
cuối cách carbon omega hay carbon cuối ở vị trí 3.
Hai acid trên có nhiều trong mỡ cá vùng biển lạnh như các salmon, tuna,
macquerel.
ALA (alpha-linoleic
Acid) là tiền chất của EPA và DHA. Không phải ai cũng đủ khả năng biến ALA
thành EPA và DHA.
Kết luận:
Hạt lanh hay flaxseeds
là một nguồn thức ăn tốt cho sức khỏe. Việt-nam có lẽ khi di thực về chỉ nghĩ
đến ích lợi công nghiệp, nên không trồng nữa. Nhưng bộ y tế và các công ty dược
liệu Việt-nam nên nghiên cứu lại để có kế hoạch để ký hợp đồng với nông dân
trồng lại cây này.
Tài liệu tham khảo:
1/ Allman MA et al.
supplementation with flaxseed oil versus sunflowerseed oil in healthy young men
consuming a low fat diet:effects on platelet composition and function. Eur J
Clin Nutrition 1995 mars: 49(3):169-78 PMID: 18190
2/ Bazzano LA et
al.Dietary fiber intake and reduced risk of coraonary heart diseaes in US men
and women.Arch Intern Med 2003 Sep 8.
3/ Brooks JD et al.
supplementation with flaxseed alters estrogen metabolism in postmenopausal
women to a greater extent than does supplementation with an equal amount of
soy.Am J Clin Nutr2004 Feb.
4/ Cleland LG,James MJ.
rheumatoid arthritis and the balance of dietary N-6 and N-3 essential fatty
acids.Br J Rheumatol 1997 May.
5/ Griel AE et al. An
increase in dietary n-3 fatty acids decrease a marker of bone resortion in
humans.Nutr J 2007 Jan.
6/ Harper CR et al.
Flaxseed oil increases plasma concentrations of cardioprotective (n-3) fatty
acids in humans.J Nutr 2006 Jan.
7/ Kinniry P et al.
Dietary flaxseed supplementation ameliorates inflammation and oxidative tissue
damage in experimental models of acute lung injury in mice.J Nutr 2006 June.
8/ Lucas EA et al.Flaxseed
improves lipid profile without altering biomarkers of bone metabolism in post
menopausal women.J Clin endocrinol Metab 2002 apr.
9/ Miljanovic B et al.
Relation between dietary n-3 and n-6 fatty acids and clinically diagnosed dry
eye syndrome in women.Am J Clin Nutr 2005 Oct.
Ds Lê Văn Nhân
Cây Xăng Máu: Một trong những cây có giá trị
nhưng bị bỏ quên
|
||||
Tên khoa học:
Horsfielddia irya Warbg.
Họ: Myristicaeae
Đại mộc nhỏ, cao khoảng 7 – 15 m, nhánh mọc ngang. Lá dày,
dài đến 30cm, không lông, mặt dưới có gân nổi và
có màu rỉ sét. Hoa chùm tụ tán, có lông màu rỉ sét, hoa
nhỏ, cành màu vàng nhị màu nâu. Ra hoa từ tháng 5 – 6, chín vào tháng 7 – 8,
trái màu xanh ,khi chín chuyển qua màu đỏ.
Thân thẳng, tỉa cành tự nhiên. Lúc nhỏ vỏ màu xám trắng, trơn. Khi lớn vỏ màu
xám sậm và nứt dọc nhưng không sâu. Mọc dọc theo sông rạch ở Bình Dương, TP
Hồ Chí Minh… Cây ưa ẩm, chịu đựng được nước ngập của thủy triều. ( theo GS-TS
Phạm Hoàng Hộ). Tái sinh chồi mạnh.
Công
dụng:
- Lá non có vị chát, hơi chua dùng làm rau sống cùng với các
loại rau tự nhiên khác trong món thịt heo cuốn bánh canh Trảng Bàng.
- Gỗ: Khi mới khai thác, nhựa tươm ra giống như máu. Do đó
người ta gọi là Xăng Máu. Phơi khô khoảng 10 đến 15 ngày, gỗ xẻ ra có màu
hồng nhạt nhưng rất dễ bị mối mọt. Với công nghệ chế biến hiện nay, người ta
đã ngâm tẩm tạo ra các sản phẩm có lợi hơn như guốc, bao bỉ, ván lạng dùng làm
ván ruột của ván ép dùng trong xây dựng.
- Chống sạc lở ven sông rạch:
Từ
lâu con người đã biết tận dụng ưu điểm của thiên nhiên bằng cách trồng Xăng
máu và kết hợp một số loài cây khác dọc theo bờ tiếp xúc với dòng nước nhằm
bảo vệ bờ đê vì bộ rể mọc dọc theo bờ sông rạch tạo thành tấm chắn bảo vệ bờ
đê, chống lại sự xoáy mòn của dòng chảy hoặc sự va đập của các cơn sóng do
tàu, thuyền hoặc gió thổi tạo ra.
Tán lá rộng, nhiều tầng, lá dày và
to, không cho nước mưa rơi trực tiếp xuống mặt đất, tránh được sự xoáy mòn
của nước mưa trên bền mặt của đất.
Với đặc điểm ưu việt về tái sinh chồi mạnh. Do đó, bộ rể luôn luôn là tấm
chắn sống bảo vệ bờ đê chống lại sự xoáy mòn của nước và tăng thêm độ vững
chắc cho bờ đê.
|
||||
(Nguyễn Sơn Thụy - Chi cục Phát triển lâm nghiệp)
|
||||
(23/11/2006)
|
Mướp rừng
Mướp rừng, Cây sâu răng, Cây mai rùa - Cardiopteris
lobata R. Br., thuộc họ Mướp rừng - Cardiopteridaceae.
Mô tả: Dây leo phân nhánh nhiều. Thân mềm nhẵn, màu lục nhạt, chứa
dịch nhầy như sữa. Lá hình tim nguyên hoặc chia thùy, có 3-5 thùy, thùy tận
cùng lớn hơn. Cụm hoa phân nhánh, hình ngù mọc ở nách lá hoặc đầu cành. Hoa
nhỏ, màu trắng. Quả có cánh.
Cây ra hoa tháng 9-11, có quả tháng 12-3
Bộ phận dùng: Lá - Folium Cardiopteridis Lobatae.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Nam Trung Quốc, Ấn Độ, Việt
Nam, Inđônêxia. Ở nước ta, cây mọc leo lên các cây bụi ở rìa rừng nhiều nơi từ Bắc
Thái, Hà Tây tới vùng núi An Giang. Thu hái lá quanh năm.
Công dụng: Ngọn hay lá non thái nhỏ xào hay nấu canh ăn như rau Mồng tơi.
Dân gian dùng lá nhai nát ngậm rồi nhỏ cả nước lẫn bã để chữa sâu răng và đau
răng.
Nguồn: http://www.lrc-hueuni.edu.vn/dongy/show_target.plx?url=/thuocdongy/M/MuopRung.htm&key=&char=M
Cây diệp hạ châu và bệnh gan
Tôi nghe nói nước ta có cây diệp hạ châu chữa viêm gan do virut
B và các bệnh về gan tốt hơn và rẻ tiền hơn các loại thuốc tây rất nhiều. Xin
hướng dẫn cách nhận biết cây diệp hạ châu. Trên thị trường có dược phẩm nào
chứa diệp hạ châu bán ở nhà thuốc? Nguyễn Ðình Giáp (Thị xã Hà Ðông)
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), đến đầu thế kỷ 21 này ước tính có 400 triệu
người trên thế giới mang mầm bệnh viêm gan do virut B trong đó 85% số người này
(340 triệu người) sống ở Ðông Nam á. Thuốc tây chữa viêm gan do virut B có
interferon và lamivudin nhưng nói chung đắt tiền và có ít nhiều tác dụng phụ và
gây khó chịu cho người bệnh. Trong khi các cây thuốc chữa bệnh gan và viêm gan
do virut B ở Việt Nam như cây diệp hạ châu lại mọc hoang trên khắp mọi miền đất
nước.
Cây diệp hạ châu và
bệnh gan
Còn có các tên khác: chó đẻ răng cưa, kiềm cam (loại ngọt), kiềm đắng, rút đất
trân châu thảo, lão nha châu, diệp hòe thái.
Ðặc điểm chung: Diệp hạ châu tên khoa học là phyllanthus, thuộc họ thầu dầu
(euphorbiaceae) đắng và ngọt, là loại cỏ sống hàng năm hoặc nhiều năm, gốc hóa
gỗ, thân nhẵn có nhiều cành mang lá - mỗi cành trông như một lá kép. Hoa, quả
mọc phía dưới lá. Mùa hoa quả: quanh năm. Hoa rất nhỏ, cánh màu trắng. Quả hình
cầu nhỏ có 3 khía. Khi già tự nứt vỏ, tung hạt ra.
Tác dụng dược lý:
Chữa viêm gan do virut B: Năm 1988 Blumberg và Thiogarajan công bố đã điều trị
37 bệnh nhân viêm gan do virut B bằng diệp hạ châu đắng. Sau 3 ngày dùng thuốc,
22 bệnh nhân đạt kết quả tốt, và chứng minh diệp hạ châu đắng có chất ức chế
men polymirase ADN của virut viêm gan B.
Bệnh viện IV quân đội đã thử nghiệm lâm sàng đề tài Ðiều trị viêm gan B mãn
tính với hepaphyl của Xí nghiệp dược phẩm trung ương 25" trên 54 bệnh nhân
- do các bác sĩ Nguyễn Thái Thanh, Lê Thế Huệ, Phạm Xuân Phi, Nguyễn Hữu Nhật,
Hồ Thị Phương Thảo. Sau 4 tháng theo dõi, kết quả như sau: - Bệnh nhân viêm gan
do virut B. Trước điều trị làm xét nghiệm máu có HbsAg (+) sau điều trị bằng
hepaphyl HbsAg (-); giảm hoặc mất các triệu chứng lâm sàng của viêm gan B. Phục
hồi nhanh chức năng gan.
- Bệnh nhân viêm gan: sau khi điều trị bằng hepaphyl 15-30 ngày. Xét nghiệm men
gan SGOT, SGPT giảm 3 lần so với lúc chưa dùng thuốc. Lượng bilirubin cũng giảm
rõ rệt.
- Bệnh nhân bị mẩn ngứa, mụn nhọt ngoài da cũng khỏi.
Thành phần của viên hepaphyl có 200mg (0,2g) bột diệp hạ châu đắng và 20mg cồn
nghệ.
Công dụng, cách dùng:
- Chữa suy gan (do nghiện rượu, sốt rét, ứ mật, lỵ amip, nhiễm độc)
Diệp hạ châu đắng 10g (Nếu là loại ngọt dùng 20g). Cam thảo đất 20g. Sắc nước
uống hàng ngày.
- Chữa viêm gan do virut B
Diệp hạ châu đắng 10g, nghệ vàng 5g, sắc nước 3 lần, lần đầu với 3 bát nước lấy
1 bát thuốc. Lần thứ 2 và 3 với 2 bát nước, mỗi lần lấy nửa bát thuốc. Trộn
chung rồi thêm 50 gam đường, đun sôi cho tan đường. chia làm 4 lần uống trong
ngày - sau 15 ngày dùng thuốc xét nghiệm lại, khi kết quả xét nghiệm máu đạt
HbsAg (-) thì thôi dùng thuốc.
- Chữa xơ gan cổ trướng:
- Diệp hạ châu đắng 100g sắc nước 4 lần. Lần đầu với 3 bát nước lấy 1 bát
thuốc, 3 lần sau mỗi lần sắc với 2 bát nước lấy nửa bát thuốc. Trộn chung rồi
thêm 100 gam đường, đun sôi cho tan đường. Chia làm 6 lần uống trong ngày. Khi
hết triệu chứng thì thôi dùng thuốc (khoảng 30-40 ngày).
DS. Trần Xuân Thuyết
Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Diệp hạ châu, cây
dại thành cây “vàng”
15/06/2009 22:37
Ông Châu Văn Đồng bên ruộng diệp hạ châu ở Tuy Hòa -
Ảnh: Hùng Phiên
|
Ít ai ngờ cây diệp hạ châu đắng (tên thường gọi là cây chó đẻ
thân xanh) giờ đây lại giúp nhiều nông dân ở Phú Yên không chỉ cơm no áo ấm mà
còn làm giàu.
Diệp hạ châu đắng (tên
khoa học Phyllanthus amarus) là cây thuốc đã được người dân dùng từ lâu đời để
chữa viêm gan, vàng da, viêm thận, phù thũng, điều kinh. Gần đây, được chiết
xuất chế tạo ra viên nang Hamega giúp hạ men gan, hỗ trợ điều trị bệnh gan nhiễm
mỡ, viêm gan B, xơ gan, điều trị viêm gan do vi-rút... Nhu cầu nguyên liệu diệp
hạ châu đắng hiện đang rất lớn trong nước và trên thế giới.
Kỹ sư Lê Thị Tuyết Anh,
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất dược liệu miền Trung (TTDLMT) đóng
tại thôn Đa Ngư, xã Hòa Hiệp Nam, huyện Đông Hòa, Phú Yên cho biết: hiện đã
triển khai trên 20 ha cho 100 hộ nông dân tại Phú Yên trồng diệp hạ châu. Kết quả
khảo nghiệm nhiều năm qua của TTDLMT cho thấy điều kiện sinh thái vùng ven
sông, đất cát tại các huyện Phú Hòa, Tây Hòa, Đông Hòa... rất thích hợp trồng
cây diệp hạ châu chất lượng cao để chế biến thuốc và xuất khẩu.
Chi tiết về quy trình trồng
và cung ứng cây diệp hạ châu, bà con có thể liên hệ TTDLMT theo số ĐT
057.3536009; Giám đốc kỹ sư Lê Thị Tuyết Anh: 0913.148.019.
|
Một vùng rộng lớn đất
rau màu phường Phú Thạnh (TP Tuy Hòa, Phú Yên) nằm ven hạ lưu sông Ba, chỉ
trong vài năm nay đã trở thành một vùng chuyên canh diệp hạ châu trù phú. Ông Châu
Văn Đồng (ở khu phố 3, phường Phú Thạnh) kể: gia đình ông chuyển 6 sào
(500m2/sào) đất trồng rau màu sang thâm canh diệp hạ châu từ 2 năm nay; quy
trình kỹ thuật, giống và một số loại phân bón vi sinh đều được TTDLMT hỗ trợ,
lãi ròng luôn xấp xỉ 60 triệu đồng/năm, gấp 2 lần trồng rau màu và gấp 10 lần
trồng lúa trên cùng diện tích. Một ưu điểm nữa, theo ông Đồng, là chỉ cần làm
đúng quy trình làm đất kỹ, tưới nước nhẹ mỗi ngày hai bận, bón phân vi sinh
đúng liều... thì chẳng phải lo sâu bệnh hay cây kém phát triển.
Cuối năm 2008, Hội đồng
khoa học công nghệ tỉnh Phú Yên đã cho triển khai dự án “Trồng và phát triển
cây dược liệu an toàn, phù hợp với vùng đất Phú Yên để làm thuốc trong nước và
xuất khẩu”. Theo đó, với kinh phí trên 1,8 tỉ đồng, từ nay đến cuối năm 2010,
TTDLMT sẽ chuyển giao giống, vốn và công nghệ cho nông dân trồng 15 ha dược
liệu, trong đó cây diệp hạ châu chiếm đến 10 ha. Dự án đảm bảo đầu ra cho người
trồng với thu nhập từ 150-200 triệu đồng/ha/năm. Diệp hạ châu có thể cho năng
suất 15-16 tấn/ha/vụ từ 50-60 ngày, mỗi năm trồng được 4-5 vụ.
Kỹ sư Tuyết Anh lưu ý:
“Nông dân muốn trồng diệp hạ châu nên liên hệ và có hợp đồng cụ thể với các đơn
vị chức năng để đảm bảo cung ứng sản phẩm đúng tiêu chuẩn theo sự điều tiết của
nhu cầu thị trường, tránh rủi ro”.
Hùng Phiên
Rau Má Và Bệnh Thấp Khớp
Russ
Maslen/Thượng CH
Tháng 12 năm 2003 vừa qua, Trong
chương trình phóng sự hàng ngày The Current Affair của đài truyền hình số 9 tại
Sydney có tường thuật một số người Úc đã tự chữa bịnh thấp khớp bằng loại thảo
dược dân gian cổ truyền (folk medicine) . Mỗi ngày chỉ cần nhai hai lá rau má
tươi và nuốt sống, một thời gian sau, bịnh thấp khớp có thể giảm bớt hoặc bình
phục. Các bài tường thuật này trùng hợp với tài liệu trong sách Arthrtis and Paradoxical
Pennywort (Bịnh thấp khớp và lá rau má) của tác giả Russ Maslen, nên chúng tôi
xin trích dịch một đoạn trong quyển sách ấy để cống hiến quý độc giả tham khảo.
“Rus Maslen ở tại vùng Mullumbimby
tin tưởng rằng ông đã tình cờ khám phá ra loại rau cỏ có thể chữa được chứng
phong thấp của ông.
Nếu câu chuyện nhai mỗi ngày 2 lá rau má, một loại rau cỏ tầm
thường mọc hoang dã khắp nơi trên đất Úc có thể làm giảm đau và chữa lành hàng
ngàn bịnh nhân của chứng thấp khớp là sự thật thì đó là một chuyện hi hữu. Rau
má còn có tên là Centella và thông thường người ta gọi nó là Swamp
Pennywort.
Đây là một loại rau bò sát mặt đất mọc hoang dã tại miền Bắc tiểu
bang Queensland chạy dài tận tiểu bang Tây Úc (Western Australia) và kể cả tiểu
bang hải đảo Tasmania nữa.
Ông Russ và bà vợ của
ông đã được nổi danh vì là những người khởi xướng và thành lập công viên bảo
tồn di sản thiên nhiên Brunswick Valley trên một đồng cỏ sỏi đá rộng 4 mẫu tây
tọa lạc đối diện với ngôi nhà của ông bà ở Mullumbimby.
Khi khởi sự vào công tác thành lập, đã có khoảng 12 người
tình nguyện phụ giúp. Nhưng con số này dần dà giảm thiểu, rồi vài năm sau đó
chỉ còn lại võn vẹn có hai vợ chồng ông Russ và bà Beryl săn sóc công viên ấy
mà thôi.
Chỉ có những cây cối bản xứ ở những địa phương như Tweed, Bruswick
và thung lũng Richmond, khoảng 400 chủng loại, được phép trồng ở công viên này.
Và nơi đây nghiễm nhiên đã trở thành địa phương bảo tồn thảo mộc, trong số đó
có vài loại hiện nay được tìm thấy rất hiếm.
Vào tháng 7 năm 1989, một khách phương xa đến viếng công viên,
thấy ông Russ đang nhổ cọng rau má bò sát mặt đất dưới bóng mát của một tàng
cây lớn, bèn dừng lại nói chuyện với ông. Người đàn ông này đề cập huyên thuyên
về chuyện ông Russ đã vô tình cắt bỏ đi loại cỏ dại mà theo ông ấy là “một thứ
dược thảo quan trọng” . Rồi sau đó diễn tả về hình dáng và đặc tính của loại
rau này.
Ông nói tiếp : “Mỗi người chỉ cần nhai và nuốt hai lá rau má liên
tục, chỉ hai lá chớ không phải một hoặc ba, thì trong một thời gian sau có thể
chữa lành hoặc giảm bớt được bịnh thấp khớp”. Ông Russ lúc đó không thấy hứng
thú về dược thảo nên không màng để ý và chỉ ít lâu sau đã quên phứt câu chuyện
mà người khách phương xa đã nói.
Một tháng sau, trong khi đang sửa soạn cho buổi ăn trưa, Beryl đã
than là không còn có thể đeo chiếc nhẫn cưới vào ngón tay được nữa. Các ngón
tay đều đau nhức, đặc biệt là các ngón của bàn tay trái. Ông Russ bảo: “Những
tiếng bực mình gắt gỏng luôn luôn xảy ra trong nhà bếp. Tôi đã bảo về việc
người đàn ông nọ đã miêu tả về sự hữu dụng của cây rau má. Nhà tôi tin ngay và
mỗi ngày đã nhai hai lá một cách thường xuyên như đã được chỉ dẫn. Đến tháng 11
năm đó, Beryl đã đeo chiếc nhẫn cưới vào ngón tay trở lại được như xưa, các ngó
tay khác thì không còn bị quặp xuống và đau nhức nữa. Đồng thời những tiếng bực
mình không còn được nghe thấy xảy ra trong nhà bếp, chẳng hạn như những tiếng
than đau nhức về các ngón tay” .
Đến tháng Tư năm sau, ông Russ đi khám bịnh đã được xét nghiệm thấy bị
viêm khớp ở các đốt xương cổ, nên thường hay cảm thấy đau nhức. Ông cũng bắt
đầu nhai hai lá rau má mỗi ngày để tự chữa như vợ ông. Chỉ ba tháng sau, các
triệu chứng của bịnh viêm khớp không còn nữa.
Thấy rau má quả thật có hiệu nghiệm trong việc chữa trị một số các chứng
bịnh thấp khớp. Ông Russ cảm thấy phấn khởi, nên đã bứng trồng vào các chậu nhỏ
để tặng cho bà con và bạn bè bị cùng chứng bịnh như ông. Tiếng đồn lan xa. Sau
đó rất nhiều người đến từ khắp nơi đổ xô về công viên này để hỏi han về cây Rau
Má.
Ngoài ra ông cũng nhiệt tâm và cố gắng phổ biến cho những người đồng
bịnh ở các tiểu bang khác về cách trị liệu đặc biệt này. Theo ông cho biết, đã
có 15 bịnh nhân bịnh thấp khớp chỉ nhai hai lá rau má mỗi ngày, sau ba tháng,
đã hoàn toàn bình phục hoặc thuyên giảm một cách rõ rệt gần như đã dứt hẳn. Mặc
dầu cây Rau Má có công hiệu thực sự trong việc chữa trị bịnh thấp khớp, nhưng
sự kiện này chưa được thử nghiệm và chứng minh bằng phương pháp khoa học. Nó
cũng không gây được sự hứng thú để người ta làm một cuộc thử nghiệm như vậy.
Ông Russ Maslen bảo rằng ông đã viết thư cho Phân Khoa Y Học của
trường Đại Học Monash ở Melbourne và Quỹ Giúp Đỡ Bịnh Nhân Phong Thấp
(Arthritis Foundation) tại Sydney nhằm cố gắng thuyết phục họ đưa vào chương
trình nghiên cứu để chữa bịnh lâm sàn. Nhưng cho đến giờ phút này, ông không
nhận được một sự phúc đáp nào. Ông buồn và bảo: “Tôi nói bằng sự thật, qua kinh
nghiệm, rau má chữa được bịnh thấp khớp; nhưng tôi không có gì để chứng minh.
Nếu nó không công hiệu thì tôi đã thành thật bảo nó không công hiệu rồi” .
Ông tiếp: “Hiện thời tại nước Úc, đã có hơn một triệu sáu trăm ngàn bịnh nhân
bị bịnh thấp khớp, và việc chữa trị bằng phương pháp này nếu được chấp thuận
cũng góp phần đáng kể. Nhưng tôi đã đủ cay đắng mà nghĩ rằng, bởi vì Rau Má là
một loại cỏ hoang dại, tầm thường và không mất tiền mua, nên không ai màng đến
việc thử nghiệm nó. Theo tôi, nếu nó được thí nghiệm và được công nhận có công
hiệu đàng hoàng thì người ta cũng có thể hái ra tiền trên loại rau cỏ hoang dại
này”.
Xin lưu ý : Mỗi ngày nhai
hai lá rau má để trị bịnh thấp khớp là liều lượng trung bình. Không nên sử dụng
quá liều trong một thời gian lâu dài vì nó có thể làm hạ huyết áp.
Source: Hội Thân Hữu Việt Nam
Oct 5, 2004
__._,_.___
Posted by: truc nguyen