“Thà tự sướng hơn là tự khổ”
Vô Danh
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc. Tri nhàn
tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì
biết mình còn sống.
Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm
ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn
bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi còn trẻ măng,
vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương.
Nhiều người khác gục ngã trong trại tù VC vì đói khát, bệnh tật, mồ
hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển,
hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người còn lại, tử thần cũng đã đón mời vì
bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn dai dẳng sống sót cũng là ân
huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!
Ý nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong
chăn ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ
hàng xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn
phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã trẻ tuổi ở
cạnh nhà.
Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày
chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi.
Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp khi kinh
tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.
Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái
radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành.
Ngủ chán thì dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi
khập khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được.
Chưa phải nằm dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác.
Những kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng sướng rân
người.
Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu
đời. Bệnh hoạn chút chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.
Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình sướng như vua rồi,
có nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ người thiếu
nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có nước sạch, phải
uống nước dơ bẩn.”
Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy trong hàm, ông cũng ư ử
hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm được cái mát lạnh và niềm
sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người. Ông biết đang được ân sủng
của trời đất ban cho trong tuổi già.
Ông cứ nhớ mãi thời
đi tù Cộng Sản, mỗi ngày chỉ có được
một lon nước chừng một lít, để rửa ráy tắm giặt. Chừng đó thôi, mà cũng xong
việc. Khi ấy, thấm cái khăn ướt lau khắp người, nghe mát rượi, đã đời, và khi
còn lại một phần nước cặn đen ngòm dưới đáy lon, cầm đổ lên đỉnh đầu, sướng đến
rên lên được.
Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho,
không vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc văng vẳng
từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của “thánh hiền”, tư tưởng
của Đông Tây.
Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn ba tỉ nhân loại
không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có người phải ra đồng
lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị đồng”.
Phải gấp gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay phải
múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”.
Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ cảm được cái sung sướng đang có
ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời
phòng.
Ông Tư tự đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi
cháo gạo tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm
cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo béo tạo
vị giác đi qua trong cổ họng. Ông lầm thầm:“Ngon, cao lương mỹ vị cũng không
bằng”. Ông thường ngâm nga hai câu thơ :
“Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng.
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương”.
Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý
lời hoa gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh
mang. Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho
chính ông nghe: “Tiên trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là
cùng”.
Ông nhớ đến cái thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã
hội chủ nghĩa”, buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao động tay chân nặng
nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa cái bụng đang sôi sồn
sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng của trời ban cho. Biết
bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một buổi sáng thảnh thơi và
no ấm như ông mà không được nhỉ?
Nhìn xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên
bình, lòng ông dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau
trong phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào cũng như
đắng cay của một thời khói lửa điên đảo.
Giờ này, may mắn vẫn còn có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm
thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già
khác, cứ lục đục gây gỗ nhau, tranh thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh
phúc gia đình.
Ông thương bà biết an phận thủ thường, không đứng núi ầy trông qua
núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào
phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại
cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn
nào đó: “Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng sống được với một người đàn bà
không phải dễ.”
Ông Tư ra vườn. một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm
thoang thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa sặc sỡ còn
đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo thành một cảm
giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế thể dục chậm, xương
sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất tay chừng mười lăm
phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục nầy đã giúp ông bớt được những cảm
mạo thông thường, ông tin vậy.
Ông Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải
tốt trên tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách tả tơi,
không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng có nhiều tù nhân
khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ lớn, đủ ba mảnh, và làm luôn
cả cái “cà vạt”, mang vào trông cũng sang trọng như đi ăn đám cưới.
Nhớ lại thời đó mà rùng mình. Còn sống sót, và đến được đất nước
tự do này, cũng là một điều mầu nhiệm lạ lùng. Ông Tư đi ra đường, xe cộ vùn
vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm
của hai xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, vòng vèo trên
không, như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi,
tài nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào
hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm.
Ông, từ một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị
chính quyền cuả xứ ông bạc đãi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do cơ bản.
Đến đất nước này, ông được bình đẳng, có công ăn việc làm hợp với khả năng, con
cái ông được đến trường, học hành thành tài, có nghề nghiệp vững chắc và sống
với mức trung lưu.
Ông cảm thấy còn nợ quê hương mới nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần
đến vật chất, mà biết không bao giờ trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa
đi bộ vừa ca hát nho nhỏ.
Một người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông
chào lại bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người cảnh
sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả bằng thuế của
dân chúng, trong đó có ông.
Ông Tư thấy trong lòng bình an, ông không làm điều gì phạm pháp,
thì không sợ ai cả. Ông đọc trong báo, thấy có những xứ, dù không làm gì sai
quấy cả, cũng bị cảnh sát giao
thông chận lại đòi tiền, nếu không cho tiền, thì
bị quy kết đủ thứ tội mà mình không có.
Nắng chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà
lòng rộn rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng nhiệt, mọi
người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược đường, ông
Tư lớn tiếng:
“Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!” Ông cụ
trả lời qua loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.” Ông Tư nói to: “Việc
chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta
đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời gian để buồn nản?” Ông cụ thở
dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À, nầy, mà hình như ông
đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì vui nỗi gì? ” Ông Tư cười
lớn: “Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được niềm vui hôm nay lớn
hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải
quyết được những khó khăn, thì nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi
được, thì hãy vui lên, cho đỡ phí phạm ngày tháng trời cho” Ông cụ già lắc đầu
bỏ đi.
Ông Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng
cây có bóng nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi
cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ nằm
dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có
nhiều người còn kêu ca đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an
phận, muốn được nhiều hơn điều đang có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là
lỗi tại họ.
Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải
rắc trên người ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làm mơn trớn thịt da.
Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “14 ngàn điều làm nên hạnh
phúc”.
Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy.
Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân
lên một tấm thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng,
đến mơ mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nói dịu dàng yêu thương…
Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt,
đơn sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Không cần phải là ôm chặt
người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên giường, cũng
không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm chủ được một
tòa lâu đài sang trọng… Ông nghĩ, chắc sẽ có người cho tác giả tập sách nầy là
kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi quan.
Đời nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang
ngụp lặn trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường,
chỉ khi mất đi, hay đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.
Nắng đã xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buýt ra về. Cái
vé xe cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời cám
ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy, vì xem như họ
đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.
Về nhà, bà Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra ăn. Thấy ly nước chanh muối,
ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ họng.
Ông nhìn vợ với ánh mắt thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà
thấy bát canh bông bí nấu tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với
ông, còn ngon hơn sơn hào hải vị.
Ăn xong, còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh,
không dám đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: “Ngay giờ
khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã, không có một
miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và nhiều tỉ người khác
quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi.” Đã từng đói, nên ông bà
không dám phí phạm thức ăn.
Ông Tư mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người
khác, ăn gì cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng, mất vị giác.
Một số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được, mà ăn
bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe hơi.
Ông Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến
động. Đôi khi thấy gía thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm nhiều nhà
bình luận lo ngại. Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý, không cần quan ngại
chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm
cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn tiêu trong
khả năng tài chánh, ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn cái gì. Có một ông
bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú. Bà Tư đùa và hỏi, triệu phú thì khác
người không là triệu phú cái gì? Ông bạn lúng túng ấp úng không biết phải trả
lời ra sao. Nhưng ông bà Tư chắc chắn rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng,
đầy đủ hơn nhiều người giàu triệu phú khác.
Ông Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là
tuyệt diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ
trước, đã được tường thuật ngay. Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có
những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau, mà
thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn huyên
tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết chứa chan. Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha
hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô
cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được
ngay tức thì.
Không cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến. Hàng
chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay, lạ,
nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt vời
của các thắng cảnh thiên nhiên, các đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề
khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần
gũi trong không gian và cả thời gian.
Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho
họ thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm liệt vài
ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay cưa chân. Ông vẫn
thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên lành, khỏi qua thời
gian bệnh hoạn lâu ngày.
Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười
và nói :
“Thà tự sướng hơn là tự khổ”
Ông Tư thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh
của trời ban, nhiều ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của gia
đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen. Ông thấy sung sướng hạnh phúc. Ông
tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa không chịu, và
tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ đau./
Vu That
No comments:
Post a Comment